I.Mở đầu:
Tôn giáo là một thực thể khách quan của xã hội, luôn gắn liền với đời sống chính trị, văn hoá, xã hội của một nước là nhu cầu của đại bộ phận nhân dân, như C.Mác đã viết : “ngay trong một nước mà giải phóng chính trị đã hoàn thành, tôn giáo không những vẫn tồn tại mà còn biểu hiện sức sống và sức mạnh, thì điều đó chứng tỏ rằng tồn tại của tôn giáo không mâu thuẩn với tính chất hoàn thiện của nhà nước”. Tôn giáo do con người sáng tạo ra, sinh ra và tồn tại với xã hội loài người .
Đảng và nhà nước ta đã nhận thức được điều đó, đã mở ra một hướng đúng theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính sách tự do tín ngưỡng tôn giáo, thoả mãn nhu cầu chính đáng về tôn giáo của bộ phận quần chúng nhân dân, đã thấy đạo đức tôn giáo có những điều phù hợp nhất định với chủ nghĩa xã hội. Điều đó được quán triệt trước sau như một, thể hiện ngày càng đầy đủ vả cụ thể trong các văn kiện đại hội Đảng, trong Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và trong các văn kiện khác của Đảng và Chinh phủ .
Với nhận thức đầy đủ về tôn giáo của Đảng và nhà nước, với một đất nước Việt Nam bốn nghìn năm văn hiến, tiếp thu nhiều nguồn văn hoá trên thế giới. Cho nên trên đất nước ta có rất nhiều tôn giáo. Từ tôn giáo truyền thống bản địa: Đạo thờ Tổ tiên, đến các tôn giáo tiếp thu từ văn minh Trung Hoa như Nho giáo, Đạo giáo, đến các tôn giáo tiếp thu từ văn minh Ấn độ như Bà la môn giáo, Phật giáo, tiếp thu từ nền văn minh Ả rập như Hồi giáo, và sau cùng là văn minh phưong Tây với Ki tô giáo. Tin lành .
Ngoài việc tiếp thu các tôn giáo thế giới, người Việt Nam cũng đã sản sinh ra một số tôn giáo bản địa mang ý thức dân tộc, mang đậm nét truyền thống của dân tộc Việt Nam như đạo Cao Đài, Hoà Hảo .
Đạo thờ Tổ tiên là một tôn giáo truyền thống, chi phối tất cả các tôn giáo khi vào Việt Nam. Hiện tượng "Việt Nam hoá" các tôn giáo ngoại sinh là một hiện tượng khá phổ biến. Đạo Thiên Chúa khi không chấp nhận thờ Tổ tiên thì chưa có một vị trí đàng hoàng trên đất nước Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc, về lĩnh vực tôn giáo, có tính đa thần, phiếm thần, cho nên các tôn giáo đến Việt Nam đều được tiếp thu, chưa bao giờ có chiến tranh tôn giáo hay những tranh chấp tôn giáo trên đất nước ta .
Những hiện tượng tôn giáo mới cũng bước đầu có xuất hiện trên đất nước ta, hiện nay chúng ta đang nghiên cứu để có chính sách thoã đáng, tạo điều kiện cho nhân dân có cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo ”.
Nội dung đề tài trình bày các tôn giáo ở Việt Nam, tình hình sinh hoạt của các tôn giáo, những chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước đối với các tôn giáo.
II. Các tôn giáo ớ Việt Nam :
1. Hệ thống tôn giáo dân tộc : Đạo thờ Tổ tiên.
Một đặc điểm của xã hội cổ truyền miền Viễn Đông và cũng là của Việt Nam, là việc thờ Trời, vị đứng đầu các siêu linh quan hệ đến Đất, hai yếu tố Âm Dương, vừa gần gũi vừa thiêng liêng. Tục thờ Trời trong lịch sử xưa dành riêng cho nhà vua, người được coi là con Trời ( thiên tử ), người dân không được phép thờ. Người dân coi Trời là môt siêu linh gắn liền với việc sản xuất nông nghiệp. Từ xưa ở Nam bộ có tục thờ Ông Thiên, đơn giản mà sâu sắc, thường được thực hiện vào đêm giao thừa, với một bàn thờ và lễ vật giản dị .Tập tục đó hiện nay phổ biến trong cả nước, vua Hùng được cả nước suy tôn là người có công dựng nước, thường tổ chức giỗ vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm được nhà nước coi là Quốc lễ, người lao động được nghĩ làm việc trong ngày. Đền Hùng là điểm hành hương lớn nhất, là nơi được các địa phương về bái vọng đất Tổ .
Nhà thờ Dòng họ Đoàn - Đâu Kênh - Quảng Trị |
Trong phạm vi làng xã, có tục thờ Thành hoàng làng, thần bản mệnh của cộng đồng. Những vị thần nầy có nguồn gốc khác nhau tuỳ từng làng, có thể là các vị thần tự nhiên như: thần núi ,thần sông , thổ thần; các nhiên thần nguồn gốc lá cây, đá, thuỹ sản, dã thú …. Có khi là các thần vì một lý do gì đó có quan hệ vô hình cộng đồng nhưng mang đậm tính thiêng. Có thể lại là các vị tổ sư các nghề, người lập làng, dựng làng, những người có công với nước, các danh nhân văn hoá, nhân vật các tôn giáo … Nên có khi trong một làng có vị thành hoàng do vua cử, có vị do dân suy tôn, thậm chí có hiện tượng một làng có hai ba vị thần hoàng, thậm chí có đến 7 vị thành hoàng. Vị thần làng với chức năng bảo hộ và phát triển cộng đồng, được thờ trong ngôi đình làng.
…. Dù dược dân tôn hay vua phong, hoặc cả hai, cũng đều là sợi day liên kết mang tính thiêng liêng giữa các thành viên đã khuất ,cũng như những người còn sống của đơn vi cơ sở xã hội của đất nước .
Ở Nam bộ, tuc thờ thần làng có những nét khác biệt, nhưng nội dung và lễ thức cơ bản vẫn có cùng ý nghĩa. Nơi đây các vị thần có sắc phong không nhiều, và cũng chỉ mới có từ thời Gia Long. Các vị thần hoàng có nguồn gốc đa dạng, nhưng cơ bản phải là ngưòi có công với nước, với làng, các tiên hiền, hậu hiền, tổ sư các nghề, các tiên sư, đặc biệt có cả các vị anh hùng thời cận hiện đại, thậm chí các anh hùng liệt sĩ ngày nay, cũng như các nhân vật của các tôn giáo khác .
Đáng lưu ý là, nếu như các lễ thức của triều đình chịu ảnh hưởng của Nho giáo thì ngược lại, nôi dung và nghi thức thờ thành hoàng lại rất đậm đà sắc thái dân tộc đồng quê. Đó là vốn quý giá của dân tộc cần gìn giữ và phát huy. Cũng vì lẽ đó, với chủ trương giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc nhà nước có chủ trương cho phép tổ chức hội làng, tổ chức các lễ hội nhân dịp giỗ các anh hùng có công với nước, các danh nhân văn hoá. Từ Nam chí Bắc, không khí nhộn nhịp tổ chức vào các ngày đầu xuân, đánh thúc dậy hồn thiêng dân tộc, một tâm thức trở về cội nguồn. Việt Nam là một đất nước của lễ hội, hàng năm có hơn 7000 lễ hội trên đất nước ta.
Ý niệm liên kết cộng đồng về phương diện huyết thống được thể hiện trong phương diện tôn giáo ở đạo thờ tổ tiên hay thờ những người đã khuất cùng huyết thống. Tổ tiên được coi như thần bản mệnh của dòng họ, tông tộc, gia đình. Với quan niệm ông bà tổ tiên can thiệp đến vận mệnh con cháu, nên con cháu vừa chịu ơn sinh dưỡng, vừa sợ bị quở phạt. Do đấy, tổ tiên được con cháu còn sống tưởng niệm tôn thờ, có trách nhiệm lo lắng, chăm sóc theo tục lệ để được yên vui bên kia thế giới, được về quây quần sum họp , “ăn uống” cùng con cháu và che chở con cháu được nên người, nhằm bảo vệ và duy trì dòng họ và gia đình. Con cháu, theo quan niệm “sống gửi ,thác về ”,cũng mong được tổ tiên phù hộ, để làm tròn trách nhiệm nơi trần gian. Đến lượt họ, khi về chín suối, lại được con cháu tôn thờ, hương khói. Khác với phương Tây, con người chỉ là thờ Chúa, kính các thánh thần, ở phương Đông con người vừa là người thờ cúng các siêu linh, tổ tiên, ông bà lại vừa được con cháu tôn thờ. Nếu ai có công với nước, với làng, còn được dân làng dân nước thờ cúng. Mối liên kết giữa người đã khuất , ngưòi đang sống với ngưòi sẽ sinh ra, về phưong diện tôn giáo là tâm thức của tôn giáo Viễn Đông nói chung và của Việt Nam nói riêng .
Đạo thờ Tổ tiên của cộng đồng người Việt thể hiện không chỉ riêng trong việc cúng bái ngày giổ chạp, ngày mồng một, ngày rằm, mà còn ở mọi phong tục, tập quán liên quan đến những thời điểm quan trọng nhất trong chu kỳ đời sống của một con người: sinh đẽ, hôn nhân, lên lão cũng như sau khi đã khuất: săn sóc phần mộ, lo lắng cho cuộc sống thế giới bên kia. Nên Hổ Chí Minh đã nhận xét, ở Việt Nam, đạo Tổ Tiên đã trở thành một hiện tượng xã hội, Đạo cũng có tác động bảo vệ danh dự cho những ngưòi cùng cộng đồng, về phương diện đạo đức, khích lệ con cháu làm điều tốt ,gắng trở nên những người có công với dân, với nước để làm vẽ vang cho gia đình, dòng họ .Nếu lược bỏ dần những yếu tố lỗi thời : động mồ, động mã, tìm chổ mả phát, xem hướng đất …, cũng như giảm bớt những nghi thức phức tạp, tốn kém thời gian, tiền của một cách vô ích và phi lý, thì đó là một đạo trong sáng tích cực, nói như J. Délumeau, đạo đó “biểu hiện một tính độc đáo không thể nào xoá bỏ được ”.
Đạo Tổ tiên hầu như được mọi ngưòi Việt Nam, bất kể theo tôn giáo nào thực hiện. Có thể nói không sợ sai rằng, nó là nền tảng cho những tôn giáo khác như đạo Hoà Hảo ( một trong tứ ân ; Ân tổ tiên ) , như đạo Cao Đài ( việc ma chay ), nhất là đạo Nho với chữ Trung và chữ Hiếu. Đạo Phật phát triển một phần nhờ đưa bát hương lên chùa, hoá thân hoàn vũ ( lễ Vu Lan ).
Theo điều tra xã hội học tôn giáo, gần như tất cả gia đình bộ phận không Ki tô giaó đều lập bàn thờ tổ tiên trong nhà, thắp hương hàng ngày, hàng tuần. Phổ biến nhất là ngày rằm, ngày mồng một, trong các dịp giổ chạp hay trong nhà có việc vui như cưới xin ,cổ bàn. Người theo đạo Phật, Cao Đài, Hoà Hão cũng không bỏ tục lệ thờ cúng tổ tiên. Khi con cháu mắc bệnh nan y, ngoài việc điều trị bằng Tây y hay Đông y, số ngưòi cầu xin cho tai qua nạn khỏi chiếm tỷ lệ 20.7 % , cao hơn cầu Trời, Phật : 15.3 % , hay bói toán : 2.6 % .
Bộ phận Ki tô giáo ( Công giáo ) trước đây không cho phép tín đồ giữ đạo Tổ tiên, cũng như thờ cúng các vị thần thánh tôn giáo khác, hay các anh hùng liệt sĩ vì họ quan niệm sai lầm rằng, tất cả đều là “ma, quỹ”, nếu ai thờ tổ tiên phải dứt phép thông công. Các tín đồ phải nin lặng để trong lòng, hoặc thờ “chui” bằng cách gữi bát hương sang nhà bên “lương ”, hay cất giấu vào hòm thóc … Năm 1964, giáo hội mới cho phép giáo dân Việt Nam tôn kính tổ tiên và các anh hùng liệt sĩ theo tinh thần của Huấn thị Plane Compertumest ( 8/12/1939 ) của Giáo hoàng Piô XIII. Tinh thần đó được các tín đồ Nam Bắc hoan nghênh. Hiện nay người Công giáo thờ cúng tổ tiên có tỷ lệ khoãng 92 , 2 %. Có người vừa xin lễ ở nhà thờ, vừa tổ chức lễ giổ ở nhà. Người Công giáo không quên đạo Tổ tiên. Tin thần của Huấn thị và Nghị quyết của Công đồng Va ti căng II chỉ ít lâu sau đã ảnh hưởng khắp nước ta. Một điều đáng mừng là nhờ nhận thức lại đạo Tổ tiên, nhu cầu tình yêu và gia đình hạnh phúc, được người Công giáo quan tâm và đưa lên nhu cầu hàng đầu .
Nếu ngày xưa dưới chế độ gia trưởng phụ quyền, con cái sợ bố mẹ trừng phạt, nên việc thờ phụng chủ yếu là cầu mong việc che chở, hiện nay việc thờ cúng chủ yếu lả để tỏ lòng biết ơn và để mong điều tốt lành .
Cùng với đạo thờ vua Hùng, người có công dựng nước, thờ những người có công với nước, với làng, đạo thờ những nguời đã khuất cùng huyết thống đã tạo thành một liên kết tâm thức tôn giáo giữa những thành viên sống trong môt cộng đồng lãnh thổ và những cộng đồng huyết thống . Nó tạo nên một hệ thống tôn giáo dân tộc phản ảnh mối quan hệ trong thực tiễn xã hôi. Trong mỗi con người Việt Nam, có hai con người thuộc về hai cộng đồng: dòng máu và lãnh thổ. Nhưng đặc biệt là có hiện tượng đồng nhất quan hệ huyết thống với quan hệ xã hội thông qua việc đồng nhất các thuật ngữ xưng hô trong dòng họ và ngoài xã hội.Hay có thể nói, người Việt Nam kéo các quan hệ xã hội về quan hệ gia đình hay ngược lại mở rộng quan hệ gia đình ra xã hội .
Trong thời đại hiện nay, xu thế toàn cầu hoá tạo nên mợt nguy cơ ,một tai hoạ của sự đồng hoá dân tộc cho bất cứ một dân tộc nào ,một đất nước nào, chứ không riêng ta hay các nước đang phát triển. Cùng với các yếu tố văn hoá dân tộc khác, hệ thống tôn giáo dân tộc góp phần khơi lại đạo lý, tình nghĩa cho con người Việt Nam, nhằm góp phần không tự đánh mất mình, tạo nên một con đê ngăn chặn xu thế đồng hoá dân tộc . J.M. Azas nhận xét rất đúng, trong giao đoạn hiện nay, sự đồng hoá dân tộc là tiếp nối của sự diệt chủng, tôi nói thêm không bằng súng đạn mà bằng văn hoá. Cái chết về thể xác là điều đáng sợ đối với đời sống trần tục vật chất nhưng, với người Việt Nam, khi nghĩ đến nó là nghỉ trở cội nguồn, nơi ông bà, tổ tiên đang sống, trở về cái thiêng liêng của cộng đồng : Gia đình – Làng nưóc. Đạo thờ tổ tiên mang ý nghĩa tích cực là vì thế .Nó làm cho con người hiện tại thấy mình là cái dấu nối của lịch sử mỗt cộng đồng, dấu nối từ quá khứ đến tương lai ,và lại là cái phần thiêng liêng và đáng trân trọng nhất, để thấy tự có trách nhiệm với cuộc sống, trưóc khi về với tổ tiên .
Ngày nay, hệ thống tôn giáo dân tộc gọi tắt là đạo Tổ tiên, được làm phong phú thêm bởi những ngày kỷ niệm, tuy không mang tính tôn giáo, nhưng cũng có quan hệ với thế giới vô hình, như những ngày tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, các ngày kỷ niệm chiến thắng … ở đó gợi cho mỗi người nhớ đến những người đã ngã xuống vì nưóc vì dân, vì xóm làng thân yêu. Nên có thể nói rằng, đạo Tổ tiên là bộ phận “thiêng liêng ” của Tổ quốc – Quê hương - Gia đình.
2. Đạo Phật:
Có thể nói Phật giáo là là một tôn giáo truyền thống của ngưòi Kinh, của cả cư dân miền núi phía Bắc và Đông Bắc dưới hình thức là Pụt, Then. Phật giáo có ảnh hưởng hay hình như không ảnh hưởng tới các cư dân bản địa vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, miền núi Thanh Hoá – Nghệ An và Tây Bắc Việt Nam vùng các dân tộc Thái và dân toc Mường, Phật giáo ảnh hưởng rất mờ nhạt ,kể cả những cùng giáp Trung Hoa và Lào .
Đạo Phật ở miền Bắc tương đối thuần khiết, theo dòng Đại thừa ,càng vào phía Nam lại chia ra nhiều tông phái: Đại thừa, Tiểu thừa, Khất sĩ, Phật giáo cổ truyền. Đó là chưa kể đạo Phật của người Trung Hoa và ngươi Khơ me ở Nam bộ .
Chùa Thiên Mụ - Huế |
Hiện nay, đạo Phật là tôn giáo có số tín đồ đông nhất, khoảng 7.204.380 tín đồ(1997 ), với 21.302 nhà tu hành. Số lượng tín đồ Phật giáo thật khó đoán định. Nếu chỉ tính những người quy y tam pháp thì không đến số lượng trên còn nếu chỉ dựa vào số người lên chùa, có niềm tin vào cái thiện cái ác, thuyết nghiệp báo, luân hồi …. thì con số 7 triệu e còn thấp. Ngày xưa đạo Phật chỉ tính những người xuất gia hợp thành tăng đoàn và những cư sĩ tại gia. Những người ủng hộ nhà chùa và sư sãi thi được coi là thí chủ .
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Tôn giáo có tới 70.8 % ngưởi dân không Ki tô giáo được hỏi là theo đạo Phật, 60.1 % có thờ Phật, 71.2 % tin Phật có khả năng cứu giúp, và 78.8 % đi lễ chùa ( 15.1 % thường xuyên ). Số gia đình có bàn thờ phật tại nhà lên đến 70.5 %, nhưng khi kê khai lại nói không theo đạo Phật. Điều nầy cho thấy đạo Phật đã đi vào trong từng gia đình người Việt Nam, nhất là ở phía Nam, nơi đã gắn liền với đạo Tổ tiên .
Phật giáo lấy chữ “tâm ” làm gốc, vậy nên ngay cả khi tín đồ đã quy y, nhưng chưa xuất gia, cũng không bị ràng buộc theo một giới luật chặt chẽ, xu hướng thế tục hoá ngày càng tăng dần. Nếu một tín đồ vì một lẽ gì không theo giới luật nữa, cũng không bị “khai trừ ” như tín đồ Ki tô giáo bị rút phép thông công. Tính tự nguyện, tự giác, với tổ chức mềm dẽo, lại làm cho người Việt Nam gần với đạo Phật, nên phải chăng, trong Giáo hội Phật giáo chỉ có sự phân biệt rõ rệt người xuất gia và không xuất gia, còn giữa các tín đồ và quần chúng tín đồ thì ranh giới không có sự rạch ròi .
Tính hoà nhi bất đồng của các tôn giáo truyền thống trong khối người không Ki tô giáo làm cho việc thống kê tín đồ phật giáo thêm khó khăn. Những tín đồ Cao Đài, Hoà Hảo cũng thấy Phật trong tôn giáo của họ. Ngược lại, người theo đạo Phật cũng thấy trong mình có đạo Nho, Đạo giáo, thấy trong chùa cũng thờ các vị thuộc các tôn giáo khác .
Theo thống kê của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc, hiện nay nước ta có 13.923 ngôi chùa, chùa tập trung ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng quanh Hà nội, ở thành phố Hồ Chí Minh, Huế, vùng Khơ me. Có khoảng 450 chùa của phái Tiểu thừa và gần 100 tịnh thất thuộc phái Khất sĩ, bên cạnh đó có những “ chùa” của người Hoa, họ thường thờ Quan Công hay Ngọc Hoàng hoặc các vị khác không phải Phật .
Càng vào phía Nam các hệ phái Phật giáo càng đa dạng, từ đó dẫn đến đa dạng về kiến trúc, về bố cục trong chùa, về giáo lý có tính hiện đại và canh tân, về năng lực các chức sắc có phần cao hơn. Tính đa dạng là một thực thể khách quan cần lưu ý .
Giáo hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc đã ra đời với một Hiến chương chấp nhận cho các hệ phái hay nhóm vẫn được duy trì truyền thống của hệ phái mình về phưong diện tu hành theo đúng chính pháp của bản thân.Điều duy nhất cần thống nhất là sự trong sạch của đạo, không bị các thế lực chính trị cũng như đồng tiền lũng đoạn. Lợi ích tôn giáo thống nhất với lợi ích dân tộc trên nguyên tắc: đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội .
Trong những năm sau đổi mới, vai trò cuả đạo Phật, có phần tăng tiến. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này :1. Chính sách tôn giáo ngày càng cụ thể và có phần khích lệ những điều tốt đẹp có trong giáo lý tôn giáo, vì nhận thức tôn giáo còn là một nhu cầu ; 2.Đạo Tổ tiên có phong trào đưa bát hương lên chuà, hoá thân hoàn vũ ;3. Phổ biến hiện tượng trong các chuà có những hoạt động tôn giáo khác nhất là thờ Mẫu ;4. Các bà trung niên lão niên, các cán bộ về hưu “già vui cảnh chuà ” , đặc biệt là Hội các bà qui y tham gia công tác từ thiện và chăm lo việc đau ốm, tang tế cho những người trong chòm xóm ;5. Đặc biệt với xu thế thế tục hoá ,Phật giáo hướng vào việc phục vụ đời, nhập thế làm không khí đời sống tôn giáo sôi động .
Sự gia tăng cuả Phật giáo vẫn theo lối bình dân. Một số trí thức đi sâu nghiên cưú giáo lí cuả đạo Phật, một số thanh niên ham học tìm hiểu đạo. Nhưng nhìn chung quần chúng theo Đạo Phật, có thể qui y hay tu tại gia, sự hiểu biết đạo Phật còn chưa thấu đáo. Tính thực dụng cuả những người theo đạo lên chuà biểu hiện khá rõ .Hầu hết sự cầu mong cuả họ chủ yếu là cho trần thế ,chứ chưa hẳn đã muốn sau này thành Phật ,hay về bên Tây Trúc ,kể cả những người tu hành .Theo kết quả điều tra cuả viện Nghiên cưú Tôn giáo ở ba tỉnh thành:48,7% người được hỏi trả lời là họ theo đạo Phật nhằm tai qua nạn khỏi, phát tài, phát lộc; 56,8%để phúc cho con ;2,5 %để vợi nỗi đau trần gian .Số muốn thành Bồ Tát ,La hán chỉ có 2,5%(đặc biệt thành phố Hà Nội: 0%);để được về nơi Tây phương cực lạc 5,1%; để thoát khỏi nghiệp báo 9.4%; để lên Niết bàn 2,6%;không phải xuống điạ ngục 4,3%,Khi hỏi về lý do quy y hay xuất gia ,số người được hỏi trả lời do giác ngộ vì được nghe kinh và đọc kinh tỉ lệ cũng chỉ chiếm 14,4% ;trong khi đó theo đạo Phật do bạn bè lôi kéo là 38,5%;do hoàn cảnh gia đình 27,2%; vì bản thân gặp bất hạnh 5,4%;đời nhiều đau khổ 11,9%;do thiện tâm 22.3%.Khi được hỏi :Lên chuà hay khi tụng kinh thì cầu ai ?,ở Huế 58,3% và thành phố Hồ Chí Minh, có 49,8%người được trả lời cầu Phật Tổ ;Ở Hà nỘi ,cầu Tam Bảo tỷ lệ là 77,11%,còn cầu Phật Tổ chỉ có 24,1%.Tỷ lệ người được hỏi cầu cho đức Ong 7,7%(Hà Nội 33,1%; Huế 0,3%,thành phố Hồ Chí Minh 2,2%) ;Đức Thánh 3,8%;Mẫụ,7%(Hà Nội 41,6%).Qua con số trên ,có thể thấy ở Huế và thành phố Hồ Chí Minh ,tín đồ hiểu Phật giáo hơn tín đồ Hà Nội .
Những tín đồ tham gia các hội đoàn đông nhất là Hội Bà Vãi ở Hà Nội tỷ lệ là 60.24%, ở Huế và thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ tương ứng là 0,9%và 1%.Hội thiền mang tính trí thức nhất định chiếm tỷ lệ thấp ;0.7%.Gia đình Phật tử ở Huế và thành phố Hồ Chí Minh đông người tham gia hơn Hà Nội. Đáng chú ý là có tời 59,1% số người được hỏi không tham gia một hội đoàn nào .
Đội ngũ tăng ni có khỏang trên dưới 2500 (lấy giưã hai con số cuả một Giáo hội, một cuả Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc ).Trong đó ,khoảng 1000 các vị hoà thượng, thượng toạ .ni trưởng và ni sư cho thấy lực lượng còn mỏng, so với nhu cầu còn thiếu và yếu, không đủ sức trụ trì các chuà. Còn khá nhiều tín đồ thuận thành thiếu sự hiểu biết về Phật học. Qua điều tra cho thấy, một số người chủ trì các chuà chưa có những hiểu biết cần thiết về đạo, giảng kinh nhưng chưa thật hiểu kinh.Thậm chí có chuà không do các nhà sư trụ trì ,mà do cán bộ phường xã và cán bộ về hưu phụ trách với mục đích “kinh doanh ”.
Gần đây ,ở các thành phố và một số tỉnh đã có những lớp đào tạo trình độ đại học ,phổ biến là trung cấp, các ni, sư được học các ngành khoa học xã hội nhân văn. Các sách kinh được dịnh. Các sách cũng như các tạp chí bàn luận về đạo Phật khá nhiều. Trình độ hiểu biết của các chức sắc và quần chúng tín đồ Phật giáo được nâng cao một bước. Tuy nhiên, muốn để đạo Phật trở thành một yếu tố văn hóa chính trị, ngoài việc nâng cao đạo đức phẩm hạnh của các tăng ni, việc nâng cao trình độ học vấn nói chung và trình độ hiểu biết về Phật giáo nói riêng cần được lưu ý. Một đòi hỏi cần thiết là sư ra sư, chùa ra chùa. Từ sự giác ngộ về giáo lý, hiểu biết về văn hoá, những hiện tượng mê tín xung quanh ngôi chùa sẽ giảm bớt. Nhà chùa cũng làm tròn những điều Phật dạy, gần với đạo đức của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nếu xét đến cùng, đạo Phật nguyên thuỷ vẫn là một đạo không có thần linh, và con đường của Phật cũng vì mục đích cứu khổ cho nhân loại.
Bên cạnh việc ăn chay, niệm Phật, các tín đồ vẫn quan niệm rằng cống hiến nhiều lễ vật, tiền công đức góp phần tu sữa chùa chiền là một phương tiện để xoá được tội lỗi. Hoặc một số rất ít không chỉ cầu xin tai qua nạn khỏi thực sự, mà còn xin qua khỏi những việc làm ám muội, phi pháp. Ngược lại, các chùa cũng tăng phần chay đàn cầu siêu, cúng sao, giải hạn, cầu an, cúng cô hồn, thậm chí cả xóc quẻ, bói toán, mở hàng quán, tổ chức văn nghệ trong chùa để kinh doanh, tăng hòm công đức để mưu lợi .
Tinh thần đạo pháp, dân tộc, xã hội chủ nghĩa hướng tăng ni, Phật tử đoàn kết, xây dựng và bảo vệ đất nước, chăm lo tu hành cần được quán triệt.Phát huy tinh thần khoan dung hỉ xả, tránh những việc làm trái với đức tin của Phật, trái với lợi ich của Tổ quốc, vi phạm hiến pháp và pháp luật, đồng thời không biến nơi thừa tự thành nơi buôn thần ban thánh, nơi thực hành mê tín. Đó là điều mong muốn của nhân dân cả nước, một dân tộc mà đời sống văm học nghệ thuật đã đưọc bén sâu tư tưởng Phật giáo .
3. Đạo Công giáo :
Công giáo vào Việt Nam cách đây khoảng 500 năm, mở đường và tiếp theo đó gắn liền với quá trình xâm lươc của thực dân Pháp.
Trong hai cuộc chiến tranh vừa qua, ta không thể phủ nhận sự phân rẽ trong hàng ngũ chức sắc và tín đồ Công giáo. Đại bộ phận muốn dung hòa quyền lợi tôn giáo và dân tộc, đứng về phía kháng chiến. Một bộ phận khác chiếm số ít, cả tin về lời tuyên truyền về cuộc xung đột giữa hai ý thức hệ cộng sản vô thần và tôn giáo, theo giặc. Một bộ phận không ít phải băn khoăn giữa lòng yêu nước và niềm tin tôn giáo. Thực ra, như D. Marr cũng đã thấy: “ Người theo Kitô giáo không cảm thấy đe dọa bởi cộng sản…có lẽ chính vì người ta cho rằng cuộc đấu tranh giữa vô thần và hữu thần tại đây không có ích lợi gì”. Hay như Sainteny trong cuốn Đối diện với Hồ Chí Minh cũng đã viết: “ Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ để nhận thấy nơi các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi, hoặc chế giễu đối với một tôn giáo bất kỳ nào”.
Không cần nhắc lại quá khứ nhiều lắm, nhưng một số số liệu điển hình dưới đây cũng cần thấy người lãnh đạo Giáo hội thời đó đứng về phía dân tộc hay phiá quân xâm lược. Qua lời hù dọa và vận động có tổ chức, 40% tín đồ, tức là khoảng 543.000 người và 72% linh mục, tức là khoảng 809 người di cư lánh nạn cộng sản vào Nam năm 1954-1955. Linh mục Trần Tam Tỉnh cho biết 100 linh mục và 250 tu sĩ bỏ nước ra đi đợt đầu vào năm 1975 vì sợ cộng sản “tắm máu”.
Thánh địa La Vang |
Số tín đồ Công giáo gia tăng nhanh dưới thời Pháp thuộc và ở vùng tạm chiếm trong hai cuộc kháng chiến. Lúc đầu chưa chắc đã vì niềm tin, mà vì muốn an thân hoặc những lợi ích phi tôn giáo, sau dần dần thành thói quen, do chủ trương tạo những làng Công giáo toàn tòng, do cha truyền con nối. Đến nay, theo con số thống kê củ Uy ban Mặt trận Tổ Quốc ( 1997) Công giáo có 5.072.969 tín đồ, với 9.595 chức sắc và 13.554 chức việc ( không phải tu hành) với 34 giám mục ( trong đó có 1 hồng y); 2.162 linh mục, trong đó có khoảng 250 linh mục dòng; có 75.000 tu sĩ, trong đó có 6000 là nữ; có 84 dòng tu ( trong đó có 51 dòng tu nữ); có 3 giáo tỉnh gồn 25 đia phận, trong đó Hà Nội: 10 địa phận, Huế: 6 địa phận, thành phố Hồ Chí Minh: 9 địa phận với 2.030 xứ đạo và 5.390 nhà thờ.
Số tín đồ chủ yếu tăng tự nhiên, số gia nhập thêm không đáng kể. Các tín đồ nói chung là đậm đạo, nhưng cũng đã có dấu hiệu các tín đồ có thái độ tự tin hơn trong các vấn đề trần thế. Điều này đã được rút ra từ kết quả điều tra xã hội học – tôn giáo, và cũng qua những nhận thức từ thực tiễn cuộc sống.
Trên tinh thần đổi mới, với chỉ thị 37 của Bộ chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới ( 2-7-1998) và Nghị quyết 26/1999/NĐCP của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo ( 19-04-1998), các hoạt động của nhà thờ được khởi sắc, tín đồ đỡ mặc cảm, yên tâm sản xuất, làm nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Nổi bật là trật tự an ninh xã hội ở vùng Công giáo được giữ gìn tốt hơn. Đó là do sự chỉ đạo và kết hợp tốt đẹp giữa chính quyền địa phương và các tổ chưc Công giáo. Khẩu hiệu Sống Phúc âm trong lòng dân tộc được hưởng ứng. Đại đa số giáo dân muốn yên ổn làm ăn, không muốn có sự phân biệt giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, muốn hòa nhập chung vào cuộc sống ngày một được cải thiện. Nhiều người đã nhận ra về phần đạo nhà thờ là chỗ dựa, về phần đời phải là Nhà nước, là chính quyền, là do bản thân quyết định.
Hoạt động của nhà thờ là tổ chức các buổi lễ giảng, là tu bổ sửa sang và xây dựng mới nhà thờ, là đào tạo, bồi dưỡng các linh mục, tăng cường hoạt động tôn giáo, phát triển hội đoàn, tổ chức hành hương… Những việc làm đó nhằn thỏa mãn nhu cầu tâm thức tôn giáo của giáo dân, vừa nhắm củng cố uy tín nhà thờ. Nhà thờ cũng hướng phục vụ việc đời: từ thiện, y tế, văn hóa, giáo dục.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là nhà thờ còn bị trói buộc bởi nghi thức rườm rà, các tiêu chí xác nhận niềm tin, mà từ lâu các nhà thờ trên thế giới đã để con chiên tự nguyện thực hành. Nhà thờ đã rất cố gắng cho con chiên thấy việc học tập là cần thiết, nên vị trí của nhu cầu học vấn đã được chú ý . Ngược lại, cần chú ý đến việc kế hoạch hóa gia đình, cho gia đình Công giáo đỡ đông con, lâm vào cảnh nghèo túng.
Trong việc đạo như việc đời, việc phối hợp với chính quyền địa phương là cần thiết, tránh để những kẻ xấu bên ngoài, cũng như bên trong dùng tiền vào mục đích không trong sáng. Việc hợp tác cần cả hai bên, bên đạo và bên đời, thực sự chân thành, đảm bảo đòan kết vì tương lai dân tộc.
Xu thế hướng về dân tộc thể hiện như một quy luật tất yếu, cùng song song với xu thế toàn cầu hóa. Điều này được các linh mục và các tri thức Công giáo công nhận và đã thực hiện, cũng như một đại bộ phận người Công giáo đã chấp nhận ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Bài phát biểu của Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại Đại hội lần thứ III ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh có trích lại nội dung của một bài hát : “ Trước khi tôi là người Công giáo, tôi đã là người Việt Nam”, nói lên đầy đủ tấm lòng của người Công giáo. Việc tuyên truyền Cộng sản là vô thần, cộng sản coi tôn giáo là thuốc phiện, mà ở đây thuốc phiện, được hiểu như thuốc độc, ma túy, không còn “hấp dẫn” và còn phản tác dụng, vì tín đồ ngày nay cũng đã hiểu và thấy rõ qua những thực tiễn lịch sử của đất nước. Người Công giáo hiện nay cũng đã thấy văn hóa dân tộc là giá trị cơ bản của con người, mà bất kỳ tôn giáo nào cũng không thể phủ nhận được, nhất là đối với con người Việt Nam kiên cưòng bất khuất trước bao kẻ thù xâm lược, xưa cũng như nay. Các tín đồ Công giáo, cũng như các tôn giáo khác, cần ý thức được mình là con Rồng cháu Lạc và đều là chủ nhân của đất nước này. Ai cũng mong muốn đưa nước Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, hội nhập với toàn cầu với một tấm căn cước sáng giá. Trong bức thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980 có viết : “ Là Hội thánh trong lòng Dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống Dân tộc, hòa mình vào cuộc sống hiện đại của Đất nước. Cộng đồng dạy rằng: “ Hội thánh phải đồng tiến tới toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới”. Vậy chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì Quê hương này là nơi chúng ta được Thiên chúa mời gọi để làm con Người. Đất nước này là lòng Mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa. Dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân, vừa là thành phần của Chúa”.
Các tín đồ Công giáo cũng nhận thấy chính nhờ nước nhà được độc lập, các địa phương ở Việt Nam mới được thành lập các tòa giám mục, mới có một Hội đồng Giám mục Việt Nam, không có sự cai quản trực tiếp của các giám mục và các hồng y giáo chủ người nước ngoài. Các bài giảng được giảng bằng tiếng mẹ đẻ, các lễ thức được sử dụng trên nền tảng văn hóa dân tộc: rước kiệu, dùng cờ hội dân tộc, dàn nhạc bát âm, làn điệu dân ca… Kiến trúc nhà thờ cũng mang tính Việt Nam, tiêu biểu như nhà thờ Phát Diệm. Bức thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam, năm 1992, nêu rõ: “ Làm sao cho sắc thái văn hóa được diễn trong lời Kinh, tiếng hát, trong cử hành Phụng vụ, trong đời sống hàng ngày, cũng như trong suy tư ngôn ngữ thần học”. Công giáo có đi được với dân tộc hay không chính là ở sự hoà đồng vào văn hóa dân tộc, làm sao có một bộ phận văn hóa Công giáo Việt Nam nằm trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Việc tìm lại những đóng góp của các tác giả Công giáo vào nền văn học nghệ thuật nước nhà, đánh giá lại những nhân vật lịch sử người Công giáo có cống hiến cho đất nước cần được khích lệ. Cần có thêm các nhà khoa học, chính trị, văn hóa, nghệ thuật người Công giáo, cũng như những tác phẩm viết về con người tôn giáo nói chung và Công giáo nói riêng.
Vấn đề làm sao hai cái Thiêng: Đất nước và Công giáo sóng đôi và cùng được tôn trọng. Đấy là sự hội nhập của Công giáo vào văn hóa Viêt Nam, là sự “ nhập thể” của người Công giáo vào tâm hồn Việt Nam.
4. Đạo Tin lành:
Là môt bộ phận tách ra từ phong trào cải cách và li khai với Giáo hội Roma vào thế kỷ XVI .Đạo không có tổ chức giáo hội chung mà chia ra nhiều và ngày càng chia ra nhiều tông phái rất đa dạng , mỗi hệ phái có tổ chức khác nhau. Nhưng các giáo phái chính đều thống nhất ở những điểm sau đây: phủ nhận vai trò của Giáo hoàng , chỉ nhận quyền uy duy nhất là Kinh Thánh, được xác nhận qua đức tin của mỗi con ngưòi , bãi bỏ việc thờ các thánh thần , chỉ chấp nhận hai thánh lễ : Lễ báp – tem và lễ ban thánh thể , chấp nhận mục sư lấy vợ. Vậy nên, từ thập kỷ 60,70 của thế kỷ XX đến nay ,xuất hiện nhiều hệ phái quá xa với giáo lý ban đầu và bị ngay chính các hệ thống chính thống của đạo Tin lành coi như ngoài lề, thậm chí bị phê phán là mang tính cuồng tín, phản văn hoá. Đạo Tin lành vào Việt Nam chủ yếu là qua các hệ phái của Mỹ, đầu tiên là do Hội Liên hiệp truyền bá Phúc Am Mỹ ( CMA ) do A.B. Sampson, người gốc Canada sáng lập ngày 18-12-1893, một hội truyền giáo bảo thủ, luôn ủng hộ chính sách của chính phủ Mỹ .từ cuối thế kỷ XIX, CMA đã chú ý đến Đông Dương. A.B.Sampson đã viết :”Bán đảo Đông Dương đã bị lãng quên quá nhiều . Đại vương quốc An nam, phải được chinh phục cho đấng Christ”. Nên ngay sau đó, năm 1911 ,CMA củ ba mục sư là G.L. Hughes , R.A.Jeffrey vbà P.M.Husler tới Việt Nam truyền đạo .Do bị thực dân Pháp chèn ép, nên ba lần đạo bị cấm, tuy có phát triển nhưng không đáng kể. Trong kháng chiến chống Pháp ,có một bộ phận tín đồ của đạo Tin lành theo kháng chiến. Số còn lại trong vùng tạm chiếm, hoặc nếu không di cư vào Nam trong năm 1954-1955 cũng bị xem là người ngoài đạo, vì giáo sĩ R.A. Jeffrey ra Bắc tuyên bố khai trừ Hoi thánh miền Bắc. Tuy nhiên, Hội thánh vẫn tiếp tục hoạt động với gần 10.000 tín đồ và hơn 10 mục sư với tên gọi là Tổng hội Tin lành miền Bắc nằm trong Tổng liên hội Tin lanh Việt Nam .
Dưới thời tạm chiếm, ở miền Nam, Tổng liên hội Tin lành Việt Nam và các giáo phái Tin lành khác đều bị khống chế bởi các cơ quan đầu não tổ chức đạo ở nước ngoài, nhất là ở Mỹ, trong mọi hoạt động,vì mọi hoạt động của họ phụ thuộc vào tài chính cũa nước ngoài. Đạo phát triển nhanh và rộng trong khoảng 20 mươi năm chiến tranh 1955-1975,và thường co liên quan đến hoạt động chính trị đương thời, đặc biệt là chống phá kháng chiến. Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có trụ sở các tổ chức đầu não và các cơ quan khác của khoảng 20 giáo phái Tin lành, với mục sư truyền đạo Việt Nam, cùng các mục sư nước ngoài, chủ yếu của Mỹ chốt ở những vùng trọng yếu. Đạo Tin lành có hằng ttrăm cơ sở tôn giáo ,kinh tế , văn hoá khắp nơi. Đạo chú trọng phát triển lên vùng Trường Sơn – Tây nguyên ( 2 trong số 7 địa hạt ) lập ra “cơ quan truyền đạo ngưòi Thượng ”đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các giáo sĩ Tin lành người Mỹ .
ĐạoTin lành chù trọng đào tạo mục sư và người truyền đạo ( một loại chức sắc ), nâng trường Kinh Thánh lên thành Viện Thánh Kinh thần học, mở hai trường Trung cấp Kinh thánh ở Tây Nguyên, liên hệ với Viện ngôn ngữ mùa hè xây dựng chữ viết cho người Thượng với mục đích truyền đạo. Đạo cũng chú trọng thành lập một hệ thống tuyên uý trong quân đội, tuyển chọn và đưa gần 100 mục sư vào truyền đạo trong nguỵ quân .
Ngoài Tổng liên hội Tin lành Việt Nam ( miền Nam ), trước năm 1975, còn có Cơ đốc phục lâm vào Việt Nam từ năm 1929, hoạt động cả ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên. Ngoài ra còn có phái Báp- tít , phái Trưởng Lão, phái Mennomit,Hội thánh đấng Ki tô, Chứng nhân Jehovah, Ngũ tuần nói tiếng lạ … các giáo phái trong thời gian chiến tranh hoạt động ,tranh chấp tín đồ, thiên về hoạt động chính trị, xã hội , giáo dục. Sau ngày hoà bình lập lại, Tổng liên hội Tin lành Việt Nam miền Bắc hoạt động yêu nưóc phát triển bình thường. Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Nam mời được chính phủ công nhận tư cách pháp nhân .
Đạo Tin lành có nhiều xu hướng hoạt động rất khác nhau. Các giáo phái có tổ chức độc lập, có sắc thái riêng, mặc du cũng lấy cơ sở dức tin chung là Kinh Thánh, lòng tin và ân điển của Chúa ,nhưng lại hiểu khác nhau. Đó là mặt tích cực cho phep các tín đồ ít phụ thuộc vào một tổ chức hay phải qua trung gian những hàng giáo phẩm.Nhưng ngược lại, chính vì vậy, nếu bị lợi dụng cả phần đạo lẫn phần đời, hoặc do niềm tin tự do, trực tiếp dựa vào ân điển Chúa ban, nhiều khi lại dẫn đến chổ cuồng tín hay hiểu kinh thánh theo cách cắt nghĩa riêng của bản thân, nhấn vào một điểm tự cho là quan trọng, như vào lời nói của Chúa vào ngày Phục sinh. Như tin vào ngày chúa Phục lâm, ngày Tận thế. Có thể nhận biết qua sự thông cảm với Chúa …
Tín đồ đạo Tin lành hiện nay ở Việt Nam có khoảng 400.000 người với 159 mục sư và 456 người truyền đạo, khoảng gần 500 cơ sở thờ tự. Họ là những người sùng đạo .
Ngoài việc truyền đạo trực tiếp, các giáo hội Tin lành thường qua cac hoạt động khoa học, văn hoá, xã hội, y tế ,giáo dục tranh thủ cãm tình của quần chúng.Việc dùng tiền bạc để phát triển đạo trái phép ở vùng miền núi còn phổ biến. Sự cuồng tín dẫn đến chổ người truyền đạo bất chấp mọi đạo lý, kể cả hù doạ nói dối … để truyền đạo .
Do không chấp nhận những điều gì trái với Kinh Thánh ,đạo tuyệt đối cấm các tín đồ can dự vào các hoạt đông tôn giáo khác ,cũng như việc thờ cúng tổ tiên, hương hoả, bói toán, tử vi … mà họ cho là khác điều Chúa dạy. Chính vì vậy, đạo xúc phạm đến truyền thống và văn hóa của dân tộc của chính các tín đồ, gây ra những đối kháng vô ích …
Tuy nhiên, đạo khuyên con người sống có lương tâm, ngăn cản làm những điều tội lỗi. Trong khi đó, đạo lại chấp nhận những tín điều của Chúa, nhiều khi có tính mê tín. Giáo luật Tin lành ghi chín điều cấm kỵ, trong đó có những điều ai có lương tâm đều có thể tán thành: không thông gian trai gái, rượu chè, hút thuốc, ma tuý và sống bất chính .
Gần đây, cùng với trào lưu đổi mới, Tổng liên hội đang gắng đi đúng đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, hướng về dân tộc, loại trừ tư tưởng lệ thuộc ngoại bang. Đồng thời cũng cần phải cảnh giác trong việc một số phần tư xấu truyền đạo trái phép bằng cách lừa dối những ngưòi dân cả tin, đặc biệt ở miền núi, cũng như tung tin đồn nhảm làm cho các tín đồ lo ngại, vi phạm an ninh hay những hành vi la hét điên loạn mang tính mê muội nhằm củng cố đừc tin, chữa bệnh, hoặc thỉnh thoãng có trường hợp dẫn đến chết người như phái Ngũ tuần .
5. Đạo Hồi: ( Islam )
Đạo Hồi là một tôn giáo độc thần, sớm chia ra nhiều dòng khác nhau do sự phát triển quá nhanh, hội nhập với các tôn giáo của các dân tộc bị lệ thuộc và do sự phân rẽ của các thủ lĩnh. Sự phân rẽ lớn nhất là giữa phái Sunnit ( truyền thống) và phái Shiít. Tuy nhiên, các tín đồ đạo Hồi cho dù thuộc ngành nào cũng phải tuân thủ 5 tín điều thường được gọi là 5 điều cốt lõi của đạo Islam. Đó là : 1/Biểu lộ đức tin vào một vị Thánh duy nhất là thánh Allah ( chaheda). Chỉ có một Chúa là Thánh Allah, và Mahomed là sứ giả của Thánh. Từ Allah xuất hiện 2700 lần trong kinh Coran; 2/ Cầu nguyện ( salat) hướng về phía La Mecque, trung tâm đạo Hồi 5 lần trong ngày: sáng sớm, trưa, chiều, hoàng hôn và nửa đêm. Ngày thứ sáu , cầu nguyện tập thể tại thánh đường vào chính ngọ.; 3/ Tháng ramadan vào tháng 9 theo Hồi lịch và từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn phải nhịn ăn, uống, hút và quan hệ tình dục. Tháng đó được đánh dấu vào đêm thứ 27 của tháng, một đêm mà những tín đồ trung thành nhất cầu kinh suốt đêm; 4/Bố thí ( zakat) một hình thức tỏ lòng trung thành bằng cách hiến tiền theo giáo luật một cách tự nguyện, 1/10 phần thu nhập của mình cho những người nghèo đói khó khăn trong cộng đồng Islam; 5/ Hành hương ( hadji) về la Mecque một lần trong đời nếu có thể, nhằm được thanh thoát khỏi mọi tội lỗi.
Giáo lý của Đạo hồi đơn giản, nghi lễ không cầu kỳ, lại dễ hòa nhập vào đời thường để thành một tập quán. Do vậy, sự khác nhau của đạo chỉ là ở biểu hiện qua từng dân tộc, từng địa phương, từng nền văn hóa, chia thành nhiều phái. Với sự cuồng tín thần phục ( Islam nghĩa đen là thần phục vào một Chúa duy nhất), Đạo Hồi có sức mạnh bành trướng bằng máu, nước mắt của các tín đồ, gây nên những cuộc tàn sát đẫm máu trong lịch sử. Hiện nay, đạo Hồi là một tôn giáo đáng ngại, một khi cuộc thánh chiến được phát động. Đạo đang được dùng làm lá cờ chinh phục hay bảo vệ cộng đồng. Có những phái Hồi giáo cực đoan là mối lo ngại cho nhiều quốc gia, nhiều tôn giáo.
Đạo Hồi có mặt ở Việt Nam cùng với các dân tộc Chăm, có thể cùng thời với sự bành trướng của nó sang Đông Nam Á, không sớm hơn thế kỷ XV. Một bộ phận người Chăm hiện nay vẫn còn theo đạo. Ơ Nam Trung Bộ, Đạo Hồi được gọi là Bàni. Tại đây, đạo có khoảng 25000 tín đồ, nội dung của đạo đượm sắc thái của những yếu tố sinh hoạt và tôn giáo bản địa.
Các lễ thức được tiếp biến cho phù hợp với chế độ gia đình mẫu hệ, với đạo thờ cúng tổ tiên, với các lễ thức liên quan đến chu kỳ của đời sống một con người và các lễ thức nông nghiệp. Ơ đây, có thể xem đạo Bàni như một biến thái của đạo Hồi.
Bộ phận Hồi giáo ở miền An Giang, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Sông Bé lại có một nguồn gốc khác. Đó là một bộ phận thường gọi là Chà và ( Java Kur), một nhóm người lai giữa người Mã Lai ( Inđônêxia), người Khơ-me với người Chăm từ Campuchia sang vào thế kỷ XVIII-XIX. Lúc đầu tín đồ có khoảng 2000, rồi từ đây phát triển lên. Tại đây, yếu tố tôn giáo gốc của Hồi giáo đậm hơn. Các giáo luật, lễ thức phong tục Hồi giáo được tôn trọng. Tuy nhiên, trong cộng đồng vẫn giữ lại không ít các yếu tố tập quán tín ngưỡng bản địa, cụ thể là chế độ mẫu hệ vẫn được duy trì, các lễ hội nông nghiệp vẫn được tổ chức.
Hiện nay, ở nước ta, riêng với người Chăm có chừng 94.000 tín đồ Hồi giáo, với 454 các chưc sắc và khoảng 90 thánh đường nằm rải rác ở vùng Hồi Chà và. Do những nguyên nhân lịch sử để lại, các tín đồ dễ quyện vấn đề tôn giáo vào vấn đề dân tộc, không chỉ trong giới trí thức, giới chức sắc mà trong cả các tín đồ. Tuy nhiên, ta thấy chính quyền và đạo Hồi đã có sự thông cảm và người dân Chăm cũng hiểu điều đó, muốn yên ổn làm ăn, bên cạnh các dân tộc anh em, cùng xây dựng tổ quốc. Người Chăm hiểu rằng, ngay dưới chế độ Mỹ-ngụy, cuộc sống họ cũng không những không tốt đẹp, ngược lại, họ còn bị lợi dụng vào những mục đích chính trị có hại cho bản thân và dân tộc họ. Cho nên, muốn giải quyết tốt vấn đề Hồi giáo, cũng như Phật giáo vùng Khơ me, cần đặt chúng trên cơ sở quan hệ bình đẳng, tin cậy giữa các dân tộc trong một quốc gia, tôn trọng và thực sự tương trợ giúp đỡ họ tiên bộ. Dân tộc Chăm, cũng như dân tộc Khơ-me, đều có một bề dày lịch sử văn hóa. Do đấy, việc bảo vệ phát triển văn hóa dân tộc, nâng cao đời sống kinh tế, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo là hướng chủ yếu và đã được thể hiện rõ rệt từ sau ngày giải phóng.
6. Đạo giáo
Xuất phát từ Trung Quốc từ thời Đông Hán, lại nằm trong trào lưu tư tưởng phương Nam, vùng nam sông Dương Tử, Đạo giáo vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ thời Bắc thuộc. Đạo giáo quyện vào các hoạt động của phù thuỷ và phương thuật vốn có của Việt Nam tạo nên hai dòng Đạo giáo thần tiên và Đạo giáo phù thuỷ. Đây là một phức hợp tôn giáo rất khó` tách bạch, khó xác định yếu tố Đạo giáo với các yếu tố tôn giáo khác, cũng như khó xác định yếu tố nào nội sinh hay ngoại nhập. Ở nước ta, Đạo giáo thần tiên chỉ le lói trong những thời kỳ lịch sử nhất định như thời Bắc thuộc, thời Lê mạt,vì không có điều kiện phát triển .
Đạo giáo phù thuỷ chủ yếu phát triển theo con đường bình dân ,thông qua các trí thức vào quần chúng. Bởi lẽ, Đạo giáo suy tôn những ngưòi có công nửa hư nửa thực. Nên ta thấy trên điện thần của Đạo giáo không chỉ có những Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, Nam Tào ,Bắc Đẩu …. Mà còn thấy Quan Vân Trường, Quan Am Thánh Mẫu, vốn có nguồn gốc từ Phật giáo, Trần Hưng Đạo một anh hùng diệt giặc Nguyên Mông .
Đạo giáo phù thuỷ có nhiều nét tương đồng với Đạo giáo của các dân tộc nam Trung Hoa và Đông Bắc Việt Nam, như ở các dân tộc thiểu số: Nùng, Tày, H' mông, Dao … Rõ rệt nhất là việc thờ các vị Mẫu trong Tam phủ, Tứ phủ với các vị Mẫu Thiên, Mẫu Đia, Mẫu Thuỷ và đặc biệt là Mẫu Nhạc và Mẫu Thượng Ngàn. Ở đây, rõ ràng Đạo Mẫu được tách ra từ các điện thờ các thần của Đạo giáo ban đầu với việc thờ các vị đại diện khác nhau: Mẫu Liễu Hạnh thay chổ Ngọc Hoàng,Mẫu Địa thay thế cho Diêm Vương, Mẫu Thuỷ thay thế cho Long Vương, Mẫu Nhạc thay thế cho Sơn Thần hay Hạch Hỗ. Đạo Mẫu đi vào phương Nam sinh ra Tiên Thiên Thánh Mẫu ( ở Huế ),Thiên Yana hay Bà Chúa Ngọc ( Nha Trang ) Bà Chúa Xứ, Chúa Bà Đen ( nam bộ ) .
Đạo Mẫu, một hình thức nổi bật hiện nay, không loại trừ một số người Công giáo tin theo ( hiện tượng Đức Mẹ Maria hiện hình ,một thứ Mẫu không xa lạ với họ ). Hiện tượng Bà Chúa Kho, một biến tướng thần tài, mang dáng dấp Đạo giáo, một bà Mẫu với các cô, các cậu xuất hiện gần đây thu hút nhiều người .
Trần Toàn khai sinh Nội đạo thời Lê mạt, đạo có thể xem như một bước ngoặc trong việc tiếp biến Đạo giáo. Nội đạo suy tôn các vị Đức Thánh Trần, Chúa Liễu làm bậc tôn sư, nhưng vẫn mượn hai vị Huyền Đan và Độc Cước đã đươc bản địa hoá. Đạo thấm nặng vào tâm thức tôn giáo qua các hành vi: lên đồng, yểm bùa, trừ tà, bói toán…. Liên quan đến mọi lĩnh vực đời sống thường ngày, có quan hệ chặt chẻ với phong thủy, âm dương, bát quái …. Đạo suy tôn 4 vị : Thánh Gióng, Sơn Tinh, Chữ Đồng Tử,Liễu Hạnh lên hàng Tứ bất tử .
Ở Trung Quốc Đạo giáo thường gắn liền với việc cầu mong đổi đời, Đạo giáo đã châm ngòi cho một số cuộc khởi nghĩa nông dân như: phong trào Ngủ đầu me của Trương Đạo Lăng, phong trào Thái bình đạo của Trương Giác, Thái bình thiên quốc của Hồng Tú Toàn. Ở Việt Nam, theo Phan Ngọc, có vài cuộc khởi nghĩa ảnh hưởng của Đạo giáo, tuy quy mô không lớn và không rõ rệt như Trung Quốc. Rõ rệt nhất là trong thời chống Pháp vói cuộc khởi nghĩa của Kỳ Đồng, Trần Cao Vân, Phan Xích Long và đặc biệt là phong trào “Hội kín ”ở Nam kỳ .
Đạo giáo không có tổ chức, hay noí đúng hơn là tổ chúc rất lỏng lẻo. Ở các vùng ngưòi Kinh, các ông đồng bà cốt tự coi mình có căn, có theo thầy cô để học, các con đồng tự nguyện tổ chức hầu đồng. Ngược lại, ở vùng miền núi, cùng với hệ thống thầy tào, mo, then hay pụt, Đạo giáo đươc tổ chức quy củ hơn. Người làm tào, mo, then, pụt được một thầy tào dạy dỗ. Ở người Dao, Sán Chay, Sán Dìu, hô phải qua một thời kỳ cấp sắc, từ đó cắp tráp theo hầu, học dần và được cấp sắc cao hơn.Tuỳ theo sắc phong ,họ được chủ trì những buổi lễ cúng to, nhỏ khác nhau và phụ trách khu vực rỗng hẹp khác nhau. Ở vùng Tày, Nùng những người muốn làm then ,mo ,pụt phải là người có căn nhẹ viá, hoặc ốm đau ,hoặc gia đình gặp hoạn nạn .Những ngưới này,người Tày gọi là cồng pựt ,người Nùng gọi là hệt then ,hệt mo. Có nơi khi xin học ,đêm trước họ phải ngâm mình, rồi sáng dậy qua cửa nhà thầy ,phải dẫm qua đưốc lữa, tiếp theo là làm lễ nhập môn ,lạy bàn tổ sư, chịu chui qua nách thầy ba lần với hàm ý được thầy cô đẽ ra, sau đó mới được công nhận là lục sở ( học trò ). Từ đó trong nhà ho phải lập bàn thờ thầy cô ,thờ sống hồn thầy cô. Suốt kỳ học, ho phải kiêng khem.Hết hạn mới được mở mắt thì họ mới được hành nghề. Ở ngưòi Hmông ,có tích ngưòi xưa sống lâu như tiên trên trời : Nhu Há ( Trời )tức giận lừa Xí Di ,một người thông minh hay cứu người Hmông, bắt lên trời. Trước khi lên, thương người Hmông, Xí Di ném một chiếc gậy xuống đất, hứa ai nhặt được một khúc ,được làm Chí Minh cứu giúp người H'mông khi vận hạn, ốm đau ,bệnh tật .nay một số phần tử xấu trong đạo Tin Lành lừa người dân H'mông, coi Xí Di hay Chí Minh là Giê su…
Tuỳ theo cấp bậc, tào, then… được thực hành lễ to nhỏ khác nhau. Người được tào, then… chữa khỏi bệnh được làm con nuôi ( lục liệng) của tào, then… Ai có căn phải theo học. Riêng ở người Dao, Sán Chay, Sán Dìu… tùy từng vùng, từng nhóm, tất cả con trai đều là đệ tử của Đạo giáo và phải chịu lễ cấp sắc, một biến thể của lễ thành đinh. Lễ đó khẳng định từ lúc đấy người con trai đã không chỉ còn là đứa con của cha mẹ, mà là đứa con của cộng đồng người Dao, đồng thời là con của Đạo giáo. Lễ cấp sắc chỉ được thực hành khi tuổi đã đôi tám và sau một thời gian theo thầy. Còn ở các dân tộc khác, ai muốn làm tào, then, pực mới phải thực hiện nghi lễ này, hình thức giống nhau, nội dung là một. Ơ người thái, Khơ mú, nơi không chịu ảnh hưởng của Đạo giáo, cũng có hình thức saman tương tự. Tổ sư của mo là phi một, người làm mo là mo một. Những người được mo chữa khỏi bệnh phải thờ mo. Người Khơ-mú ngoài mo một, còn có thêm chương. Chương là người hùng trên trời muốn cứu dân tộc khi khổ đau, nhập vào một người nhất định. Người đó trở nên có sức mạnh, kêu gọi dân nổi dậy đấu tranh mang tính thần bí, gọi là sấc Chương( làm chương chính là chốn lại bọn quý tộc Thái hay Lào).
Nếu vạn thần của các dân tộc vùng Đông bắc là các thần thánh của Tam giáo: đứng đầu là Ngọc Hoàng thượng đế; Phục Hy, Nữ Oa là cặp đôi sinh ra loài người, tiếp theo là Thái Thượng lão Quân, Phật bà Quan Am, Khổng Tử cùng các chư vị của ba vị.Thái Thượng Lão Quân có Ngọc Thanh do chó đẻ ra, Thượng Thanh do người đẻ ra, Thái Thanh do trâu đẻ ra. Khổng Tử có Quan Vân Trường và Quan Bình, Châu Xương. Quan Am có các pựt. Có Liễu Hạnh, con Ngọc Hoàng, có Bụty em, cô Ngọc Hoàng. Nữ Oa dạy dệt vải, Huyền Đàn tức Huyền Vũ dạy trừ tà, Phục Hy dạy đạo vợ chồng, Thần Nông dạy cày cấy có khi là Nùng Chí Cao, Toại Nhân dạy ăn chín. Đặc biệt là hoa Nương tiên cô hau Hoa Nương Thánh Mẫu hay Mẹ Oa tức bà Mụ làm nhiệm vụ đưa người xuống cõi trần và coi sóc trẻ em. Ngoài ra, có Tam phủ hau tứ phủ và không ít nhân vật rút ra từ các truyện Phong thần, Tam quốc chí, Tây du ký… tùy theo sắp xếp của các dân tộc, các địa phương. Đặc biệt, nhân vật Khương Tử Nha được người Tày mời trấn giữ cửa nhà, chống hoả hoạn.
Nếu đọc các sách then, pực mà các nhà văn học dân gian và dân tộc học đã sưu tầm, tuy chưa nhiều, và so sánh các nhân vật, ta thấy nội dung không thua kém những yếu tố mà đạo Cao Đài và Hoà Hảo tham khảo. Tam xoáy ở đây xoay quanh trục của Đạo giáo, chứ không phải Phật hay Nho giáo, hơi hướng phảng phất không khí tôn giáo của Nam Bộ. Đạo Nho, nếu có, thì chiếm một vai trò nhỏ bé, tác động đến lớp nho sĩ người Tày, mới được định hình rõ nét từ thời nhà Mạc chạy lên CaoBằng. Vậy nên các văn bản Then, Pựt, Mo hay nhắc đến Đại Việt Cao Bằng quốc ( tức vương triều họ Mạc), khác các văn bản Tào nhắc đến địa danh vùng Lĩnh Nam, Quý Châu và Lưỡng Quảng.
7. Đạo Cao Đài:
Đạo Cao Đài ra đời từ năm 1926, do tầng lớp trí thức công chức ,các chủ điền sản đứng ra tổ chức.Những ngưòi lập đạo tự cho tôn giáo của mình là tôn giáo của nhân loại, hợp nhất các tôn giao đương thời đưới sự chỉ đạo cua đấng tối cao vo hình.Đạo dựa trên nguyên lý Tam giáo đồng nguyên, Ngũ chi hợp nhất, lấy đạo giáo làm trung tâm cả về nội dung lẫn phương pháp. Trong đạo Cao Đài ,đạo Ki tô chiếm một địa vị khiêm tốn, đạo Hồi vắng mặt. Đạo Cao Đài được tổ chức chặt chẽ từ trung ưong đến địa phưong theo kinh nghiệm của đạo Công giáo. Đạo Cao Đài đáp ứng nhu cầu tôn giáo của người nông dân đương thời: yêu nước và hy vọng đổi đời, nên đạo phát triển khá nhanh chóng.Và cũng vì thế, đạo cũng nhanh chóng chia thành các phe phái. Đạo Cao Đài gắn hoạt động tôn giáo với hoạt động chính trị ( trừ nhóm Ngô Quang Chiêu chủ trương vô vi ). Vì vậy, từ khi ra đời đến nay, đạo bị phân rẽ ngay trong một chi phái, tuỳ theo thái đô ch1nh trị của những người cầm đâu.Trong đạo có bộ phận yêu nước theo cách mạng đi kháng chiến, có bộ phận thân Pháp, thân Nhật, thân Mỹ mang tính cơ hội , gió chiều nào theo chiều đó. Tình hình đó kéo dài đến sau năm 1975 và còn tàn dư đến hiện nay .
Hiện nay, đạo Cao Đài có khoảng 1.200.000 tín đồ trong đó co hệ phái Tây Ninh chiếm số đông. Các hệ phái đáng kể khác có Minh Chân đạo, Tiên Thiên, Chỉnh đạo Bến Tre, Cao Đài truyền giáo Đà nẵng … Những năm qua, nhà nước đã lần lượt công nhận tư cách pháp nhân từng hệ phái của đạo Cao Đài. Khi nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đến thăm toà thánh Tây Ninh, một luồng gió mát thổi làm cho các tín đồ phấn khởi, đỡ mặc cảm, yên tâm làm ăn .Họ đang đấu tranh sao cho nội bộ lãnh đạo từng hệ pháo đoàn kết thống nhất để phát triển đạo, không để xâu xé bên ngoài lợi dụng .
8. Đạo Hoà Hảo
Thừa kế truyền thống của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương ( 1848 ) và Tứ ân hiếu nghĩa, đạoHoà Hảo ra đời năm1939 tại làng Hoà Hảo, phát triển trộng rãi khắp đồng bằng sông Cửu Long. Giao lý của đạo dựa vào truyền thống của các tôn giáo dân tộc và đạo Phật được bình dân hoá vớĩ 4 điều ( ơn tổ tiên, ơn tổ quốc, ơn Pháp bảo, ơn đồng bào nhân loại ), được thể hiện bằng những bài sấm truyền theo hình thức thơ lục bát của Huỳnh Phú Sổ được coi như ngưòi có phép thần thánh, được Trời đưa xuống để cứu thế, trước là chữa bệnh về thể chất, sau là chữa bệnh về tâm hồn. Triết lý của ông đơn giản dễ hiểu dựa theo quan niệm tu nhân học Phật và Tâm nguyên kỷ, một thuyết tiến hoá lộn ngược. Nhân loại từ thuở Thượng ngyên rơi xuống Trung nguyên và đến nay rơi xuống thời Hạ nguyên đầy tăm tối, bất công …. , cần một người đứng ra cứu đời trở lại thời Thượng nguyên trong sáng ,hạnh phúc. Đó là triết lý cổ Trung Hoa mang tư tưởng yếm thế ,máy móc siêu hình,nhưng lại thích hợp với tình cảnh người nông dân đồng bằng sông Cưủ Long xưa bị nhiều áp bức, khó khăn, mong được giải phóng .
Lễ thức của đạo đơn giản ,chỉ cần thờ một mãnh trần điều, không co nơi thờ tự của cộng đồng, thờ tại gia với hương hoa ,nước lã . Tổ đình được dựng ở làng Hoà Hảo, nơi sinh ra giáo chủ cũng là nơi mở đạo. Hiện nay, đây là nơi hành hương của các tín đồ Hoà hảo.
Đạo phát triển nhanh nhưng chỉ hạn chế trong khu vực đồng bằng sông Cưủ Long. Hiện nay ,đạo có khoảng 1.200.000 tín đồ ,chi sẻ quần chúng với đạo Phật, đạo Cao Đài là chính. Đạo phát triển được vì kế thừa tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối,vì gắn liền với những hành vi thần bí quen thuộc của người dân ,trước cho thuốc cứu bệnh, sau cho đạo cứu đời, thích hợp với tâm thức tôn giáo của người dân đồng bằng sông Cửu Long, nơi các tôn giáo khác ảnh hưởng chưa sâu sắc .
Cũng như đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo cũng bị dẫn dắt qua những người cầm đầu từ chổ chống Pháp thành thân Pháp, rồi lại theo cách mạng, rồi lại theo Mỹ, cuối cùng trở về với Tổ quốc. Hiện nay, một số ít người cầm đầu trong và ngoài nước cũng còn thái độ không trong sáng .
Năm 1999, nhà nước đã công nhận tư cách pháp nhân của đạo, cho phép đạo hoạt động công khai.Việc làm trên giải toã tâm lý đồng bào theo đạo và đồng bào càng phấn khởi được nhà nước cho phép hành hương về nơi tổ đình trong không khí trang nghiêm và vui vẻ.
Giải quyết vấn đề đạo Cao Đài và Hoà hảo thực chất la giải quyết vấn đề nông dân.Vấn đề chủ yếu là giải quyết về chính sách ruộng đất, là nâng cao đời sống kinh tế, tôn trọng nhu cầu tôn giáo, phát triển văn hoá dân tộc, khơi dậy lòng yêu nước ,yêu quê hương trong nhân dân, là nâng cao dân trí, trình độ học vấn cùng với việc chấp nhận những yếu tố tích cực trong nội dung của đạo, cần giáo dục người dân từ chổ hạn chế của đạo đi đến chấm dứt những hành vi mê tín hủ tục: cơ bút sấm truyền,thiên cơ ,bùa yếm, phù chú … giải toã những mặc cảm đối với cách mạng, thể hiện trên những nhiệm vụ cụ thể ở địa phương, phê phán những hành vi xấu của môt số rất ít người còn lại, thực hiện đúng đắn chính sách tự do tôn giáo.
Đạo cao Đài và đạo Hoà Hảo cùng chung một mục đích là phổ độ chúng sinh, tức hướng về trần thế ,giúp đời vi đạo,cần hướng hai đạo vào những việc thiện,trừ ác ngay trên quê hương của đạo,với sự giúp đở của các cơ quan đoàn thể .
9. Đạo Bà la môn:
Những người Ấn độ đầu tiên đã đến Việt Nam theo đường biển ngay từ đầu Công nguyên, dấu vết của họ có ở Oc Eo ( An Giang ), ở ven biển miền Trung và cả ở Luy Lâu ( Bắc Ninh ) . Họ mang theo cả Bà la môn giáo và Phật Giáo .
Từ khi ngưòi chăm thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa và lập quốc vào thế kỷ II, liên hệ với Trung Hoa cũng hầu như không còn. Thay vào đó là sự tiếp xúc văn hoá với Ấn độ, do văn hoá Ấn độ không mang theo chiến tranh, nên nó được người Chăm vui vẽ tiếp nhận. Anh hưởng của văn hoá An độ đôi với văn hoá Chăm phát triển mạnh mẽ trong khoãng từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV, khi quốc gia Chăm pa chấm dứt sự tồn tại của mình. Trong từng ấy thế kỷ ,ảnh hưởng nầy để lại lớn đến mức nhiều người chỉ nhìn thấy những yếu tố An độ trong văn hoá Chăm.
Nói đến ảnh hưởng của An độ đối với văn hoá Chăm thì Bà la môn giáo là yếu tố quan trọng nhất. Bà la môn giáo( Brahmanism ) hình thành trên cơ sở kinh Vê đa do người Aryen từ phiá Tây Bắc di cư tới An độ đưa vào ,là tôn giáo thờ Brahma ( nghĩa là : Đạihồn ) một ý niệm trừu tượng của kinhVê đa. Brahma là chua tể của các thần, nguồn gốc của vũ trụ, hiện ở ba ngôi như thể thống nhất của một ba vị thần: Brahma ( thần sáng tạo ) Visnu ( thần bảo tồn ) và Siva ( thần huỹ diệt ). Sau khi đạo Phật lụi tàn trên đất An độ. Bà la môn giáo được chuyển hoá dần thành Ấn độ giáo ( Hinduism ).
Nguồn ảnh hưởng của Ấn độ, tuy đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành văn hoá Chăm, nhưng không phải là tất cả. Kế thừa di sản của văn hoá Sa Huỳnh,văn hoá Chăm còn là sự tổng hoà của cả nguồn ảnh hưởng khu vực của bản địa .
Đặc trưng điển hình của nguồn bản địa là chất dương tính trong tính cách Chăm. Người Chăm sống trên dãy đất nhỏ hẹp miền Trung, giữa một bên là dãy Trường Sơn cao vút và bên kia là biển Đông sâu thẳm , môt bên là cực dương và một bên là cực âm . Sự đối chọi đó của thiên nhiên đã tạo ra những sản vật đặc biệt ( như trầm hương , vàng …) nhưng đồng thời cũng tạo nên một kiểu khí hậu khắc nghiệt, đất đai hết sức khô cằn. Sống trong khung cảnh đó, con người phải vật lộn với thiên nhiên và, mặt khác, giành giật với láng giềng xung quanh. Chính cuộc sống ấy đã rtèn luyện cho người Chăm trong lịch sử một tính cách cứng rắn và cương nghị , thượng võ và có phần hiếu chiến .
Tuy chất dương tính có mạnh, nhưng sống trong vùng Đông Nam Á nông nghiệp, người Chăm tất yếu kế thừa ảnh hưởng của văn hoá khu vực mà đặc trưng điển hình là khuynh hướng hài hoà âm dương có phần thiên về âm tính, với triết lý âm dương trong nhận thức và tục sùng bái sinh thực khí trong tín ngưỡng .
Như vậy, trong ba nguồn gốc văn hoá Chăm, nguồn ảnh hưởng của Ân độ có vẽ nổi bật nhất về hình thức ,nhưng về thực chất thì nguồn bản địa và khu vực mới giữ vai trò quan trọng .Thực tế,có lẽ phần lớn người Chăm bình dân không hề biết đến triết lý Bà la môn giáo cùng các vị thần, các truyền thuyết An độ xa lạ. đó là việc của các tu sĩ Bà la môn. Tu sĩ Bà la môn thì chỉ đạo xây đền tạc tượng theo khuôn mẫu An độ, còn người nghệ sĩ dân gian thì xây và tạc theo cảm hứng và những khuôn mẫu truyền thống của nhân dân mình .
Từ chổ cả ba vị thần Bà la môn đều được dựng tháp thờ khi mới du nhập, dần dần chỉ còn một mình tháp thờ Siva được đề cao , bởi lẽ Siva phủ hợp hơn cả với tính cách bản địa của người Chăm .Và trong Siiva muôn mặt với rất nhiều tên, chỉ có Siva dưói dạng Linga là được phổ biến bởi lẽ tục thờ cột đá vốn là truyền thống lâu đời của người nông nghiệp. Cuối cùng, Siva thì được hình dung thành người Chăm ( ngay cả con bò thần Nandin của siva cũng được thể hiện dưới dạng con trâu quen thộc ), còn Linga thì ở chổ nầy được thay bằng ông vua – anh hùng dân tộc Chăm, ở chổ khác thì được thay bằng nữ thần Mẹ quê hương xứ sở. Thành ra trên thực tế , thần Siva cùng bạn bè ông với những lí lịch An độ xa lạ chỉ còn tồn tại trong ý nghỉ của tần lớp trí thức và tu sĩ Bà la môn ,đối với số đông người dân Chăm, thần Siva, tượng Linga. Chỉ là hình thức, còn ước vọng phồn thực và lòng sùng kính các nữ thần địa phương, các anh hùng dân tộc mới là nội dung. Đạo Bà la môn xa lạ được người Chăm biến cải thành đạo Bà Chăm gần gũi ,đạo Bà Chăm nầy đã không còn là Bà la môn giáo An độ nữa mà chỉ co thể xem như một biến thể của nó .
10. Những hiện tựợng tôn giáo ma thuật khác
Trong đời sống tôn giáo, bên cạnh những hoạt động các tôn giáo kể trên, đã có mặt các tôn giáo mới, như đạo Bahaie, hoạt động ở nước ta.
Ngoài ra , nổi lên hiện tượng ma thuật,bói toán, cúng bái, cũng như “hiện tượng tôn giáo mới” ….Những hiện tượng đó làm cho không khí tôn giáo trở nên nhộn nhịp, nhưng lại cũng dẫn những con ngưòi cả tin đi đến chổ mê tín ,phục hồi hủ tục, chạy theo những đạo lạ, không lợi gì cho đức tin tôn giáo trong sáng, dẫn đến một số người lợi dụng tôn giáo với nhựng mục đích khác nhau . Bên cạnh đó, tại một số đền chùa còn có hiện tượng vừa diễn ra việc cầu cúng, vừa pha trộn những hành vi mê tín. Các đền, phủ ,điện với những ông đồng, bà đồng, thầy cúng, thầy bói,thầy phong thuỷ ,nhựng người tự xung có phép lạ, những nhà tiên tri, ngoại cảm ,thấu thị, cả những phương pháp dưỡng sinh,thiền. Yoga, khí công mang tính hư hư, thực thực, những phưong pháp chữa bịnh không cần thuốc, nửa giả, nửa thật khó phân biệt thi nhau mọc lên .
Những hình thức “tôn giáo ” nầy thật đa dạng. Phổ biến la những ông thầy mở hàng bói tuỳ theo ý thích của đồi tượng, những “nhà bách khoa” biết và khuyên đủ loại từ vận mệnh người sống, người chết cho đến xem giờ,bòi quẻ ,hướng nhà ,hướng mộ.Các cuộc hành hương cũng thu hút nhiều người với đông cơ khác nhau , khó giữ được không khí trong sáng của đạo. Bà Chúa Kho tiếp tục lên ngôi, chuyện trả vay,vay trả vẫn mang tính“kinh tế thị trường ”.
Những hiện tượng mê tín còn được giới thiệu công khai trên một số phương tiện thông tin đại chúng. Bát hương không chỉ còn ở chợ mà đã lan vào một số cơ quan tư nhân, liên doanh hay nhà nước .
Do đức tin vào Chúa cao nên bộ phận Công giáo ít tin và thực hành những hiện tượng tôn giáo thường đưọc quy gọi là “mê tín” hơn bo phận không Ki tô giáo. Tuy nhiên, số ngươi theokhông phai la không đáng kể. Phần đông những người lalên chùa ,thămđền ,đi đi hành hương lànhằm thoãmãn những như cầu tín ngưỡng phần lớn liên quan đến việc thế gian, ít liên quan đến lý lẽ của đạo Ki tô ,đạo Phật hay đạo Tổ tiên. Các địa điểm hành hương nổi tiếng như chùa Hương, đền Kiếp Bạc,đền Hùng …. Thu hút hàng vạn lượt người trong các dịp lễ hội ,mỗi nơi hàng năm thu hàng tỷ đồng ,không khí trần tục xen lẫn không khí linh thiêng ,làm giảm vẽ trang nghiêm cần thiết .
Sư dung tục hoá còn thấy ở các nghi thức,cách bày biện hầu hết không đúng quy cách ở những nơi thờ tự. Các đệ tử đua nhau đốt vàng mã,có loại đắt tiền như biệt thự , ô tô , có cả Đôla hay xe Dream bằng giấy.Có hiện tượng quay lại hủ tục mượn danh “dân tộc hoá ”. Nhưng thật ngịch lý ,đáng lý theo lệ tục , đồ dâng lễ phải thuộc loại xưa hơn đồ thường dùng ,thì nay lại là đồ ngoại : bia lon , rượu tây ,thuốc lá ngoại … Dường như một số người muốn khoe giàu ,khoe sang hơn là biểu lộ tấm lòng thành.
Hiện tượng tôn giáo mới đươc bùng lên từ năm 2000, năm bước vào thiên niên ky mới, với quan niệm về một ngày tận thế hay một kỷ nguyên mới ra đời. Có những loại nội sinh từ truyện cả nhà hoá Phật của Trịnh Thái Bình,một trí thức đứng ra lập Trường ngoại cảm Tố Dương, Hội Lăng Hoa Di Lặc, nhóm Đức Ngọc Phật Hồ Chí Minh, mượn danh Chủ tịch Hồ Chí Minh hành đạo , đạo Nami Bồ tát, đạo Quang Minh, Chân Không, đạo Bạch, Quốc tổ Lạc Hồng, đạo Trứng ,đạo Khăn Vàng ….Có những đạo ngoai nhập như Thanh Hải VôThượng Sư ( Đài Loan ), Vi vôkhoa học thần bí ( Pháp ) ,Khổng Mạnh thánh đạo hội ( Đài Loan ), Địa Mẫu ( Trung Hoa ) …Những đạo nầy theo quy luật chung nổi lên hay lặn tắt ,tuỳ thuộc vào niềm tin của quần chúng tín đồ vào người khởi xướng .Hầu hết các hiện tượng trên đều pha lẫn đạo với đời .
Bên cạnh những hiện tượng trên còn có phong trào ngoại cảm ,thấu thị, khí công, thiền …hay các việc mượn danh một tôn giáo xưa truyền bà trái phép gây mất trật tự , gây chia rẽ trong nội bộ dân tộc, làm ảnh hưởng đến sư lành mạnh của một nền văn hoá Việt Nam lâu đời .
IV . Kết luận :
Tôn giáo là một thực thể khách quan của xã hội, luôn gắn liền với đời sống chính trị ,văn hoá ,xã hội của một nước, là nhu cầu của đại bộ phận nhân dân Tôn giáo do con người sáng tạo ra, sinh ra và tồn tại với xã hội loài người. Do đó, cần đặt ra chính sach thích hợp, chính sách đó phải được quy định trong Hiến pháp và pháp luật ,bao quát toàn bộ các hình thái tôn giáo, phải được điều hành và chỉ đạo bằng một nhà nước thống nhất, không chỉ dưới góc độ chính trị ,an ninh, mà cả các góc độ xã hội, văn hoá, đạo đức .
Nước ta là một nước có nhiều tôn giáo, có những tôn giáo có tổ chức, có lý thuyết giáo lý, có nơi thừa tự. Nhưng cũng có những tôn giáo tổ chức còn lõng lẽo,chứa có hệ thống giáo lý. Có những tôn giáo xen kẽ, đan xen giữa tôn giáo nầy với tôn giáo khác. Có tôn giáo mới nãy sinh từ nguồn nội sinh hoặc ngoại nhập, chúng ta cần tìm hiểu để có biện pháp quản lý .
Theo chủ trương của Đảng và của Chính phủ, mọi tổ chức tôn giáo đều phải sống“tốt đời .đẹp đạo ”, hoạt động theo luật pháp và làm phong phú thêm nền văn hoá nước nhà .
Chúng ta cần có một tổ chức thích hợp, tập hợp được các ban ngành dưới sự chỉ đạo thống nhất của Đảng và nhà nước, với một đội ngủ cán bộ quản lý có tri thức, có năng lực công tác, đời sống tôn giáo sẽ đi vào nề nếp lành mạnh, khối đoàn kết giữa các tín đồ các tôn giáo khác nhau, giữa những người có tín ngưỡng và không có tín ngưỡng được củng cố bền chặt trên cơ sở cùng nhau xây dựng một đất nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng và văn minh ”.
V. Tài liệu tham khảo :
1) Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam – GS. Đặng Nghiêm Vạn – Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – 2001.
2) Về tôn giáo và tôn giáo ở Việt Nam – Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo ,Viện nghiên cứu tôn giáo - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 2004
3) Cơ sở văn hoá Việt Nam –Trần Quốc Vượng chủ biên –Nhà xuất bản Giáo dục - 2004
4) Cơ sở văn hoá Việt Nam –Trần Ngọc Thêm –Nhà xuất bản Giáo dục - 2000
5) Đại cương văn hóa phương Đông –GS Lương Duy Thứ chủ biên – Nhà xuất bản Giáo dục.
6) Mối quan hệ Thời đại- Dân tộc –Tôn giáo –PGS. Bùi Thị Kim Quỳ – Nhà xuất bản Khoa học xa hội – 2002
7) Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử Dân tộc Việt Nam – Ban tôn giáo chính phủ và Uỷ ban khoa học xã hội - 1988
8) Mấy vấn đề văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long – Viện Văn hoá - 1987
TP.HCM năm 2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét