I. Mở đầu
Tiến trình văn hoá Việt Nam, cho đến nay, đã trải qua nhiều biến động, nhưng do những hoàn cảnh địa lí – khí hậu và lịch sử xã hội riêng nên dù biến động tới đâu, nó vẫn mang trong mình những nét bản sắc không thể trộn lẫn được với một tiến trình tạo thành ba lớp văn hoá rõ rệt :
- Lớp văn hóa bản địa : hình thành trên nền văn hoá Nam Á và Đông Nam Á
- Lớp thứ hai : hình thành trong quá trình giao lưu văn hoá khu vực, trươc hết là từ Trung Hoa .
- Lớp thứ ba : hình thành trong qua trình giao lưu với văn hoá thế giới, đặc biệt là giao lưu với văn hoá phương Tây.
Từ khi văn hoá phương Tây bắt đầu thâm nhập, cùng lúc văn hoá Trung Hoa suy thoái đi, các yếu tố thuộc bản sắc truyền thống của văn hoá Việt Nam được dịp phát huy tác dụng. Tuy nhiên, dù Việt Nam có ngày càng hội nhập sâu hơn vào thế giới, một số yếu tố văn hoá Trung Hoa đã mãi mãi trở thành một bộ phận của truyền thống văn hoá Việt Nam .
Giai đoạn từ 1858 đến 1945, nhìn ở diễn trình văn hoá, là một sự đứt gãy chưa từng có . Non một trăm năm, bắt đầu từ các đô thị, từ Sài Gòn đến Hà Nội, từ Nam đến Bắc ,từ thành thị đến nông thôn ,văn hoá Việt Nam có những biến thiên ghê gớm. Từ cách ăn, mặc ,đến các phương tiện đi lại, từ điêu khắc ở đình làng đến tượng đài ở những nơi công viên, từ thơ Đường sang thơ mới, từ văn vần sang văn xuôi, tiểu thuyết, từ chữ Hán chữ Nôm sang chữ Quốc ngữ, tất cả đều đi tới hoà nhập với thế giói hiện đại .Tuy nhiên, bản sắc văn hoá dân tộc vẫn không mất đi , không bị thay đổi . Nói các khác, đó là văn hoá Việt Nam , là sự không chối từ về văn hoá trong việc tiếp thu các yếu tố ngoại sinh .
Sự tích hợp và kế thừa liên tục làm cho văn hoá Việt Nam trở thành một khối vững chắc biết ứng xữ khéo léo với tự nhiên và luôn luôn chiến thắng những thế lực mạnh hơn mình gấp bội . Truyền thống là ổn định, còn hiện tại phải là phát triển. Sức mạnh văn hoá bốn nghìn năm đó cũng chính là động lực phát triển cho xã hội ngày hôm nay .
Nội dung đề tài xin trình bày bối cảnh của quá trình giao lưu văn hoá Việt –Pháp , Nội dung giao lưu văn hoá Việt – Pháp trong thời kỳ Pháp thuộc . Đây là quá trình đồng hoá của thực dân Pháp và chống đồng hoá của nhân dân ta . Nội dung các quá trình giao lưu văn hoá đã tạo nên nền văn hoá Việt Nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc.
II. Bối cảnh lịch sử văn hoá
1. Người Pháp xâm lược và dân tộc Việt Nam chống xâm lược
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam với lý do triều đình Huế ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán. Năm 1859, khi không thắng nổi quân dân Việt Nam, dươí sự lãnh đạo của nhà Nguyễn, thực dân Pháp đã quay vào Nam Bộ và tiến công thành Gia Định. Triều đình nhà Nguyễn phân vân, có phái chủ chiến, có phái chủ hòa. Năm 1862, thực dân Pháp đã chiếm được các tỉnh thành như Định Tường, Biên Hòa,Gia Định, Vĩnh Long v.v…Năm 1867, chúng lại chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, đặt ách cai trị ở Nam Bộ. Năm 1873, người Pháp bắt đầu đánh ra Bắc Bộ. Năm 1874, triều Nguyễn lại ký với Pháp một hiệp ước đầu hàng ( còn gọi là hiệp ước Giáp Tuất), gồm 22 khoản, trong đó có những khoản chủ yếu là công nhận chủ quyền của Pháp ở cả Lục tỉnh, thay đổi chính sách đối với đạo Thiên Chúa, mở cửa cho Pháp tự do buôn bán. Năm 1882, thực dân Pháp đánh thành Hà Nội. Năm 1883, chúng lại đánh vào kinh thành Huế. Ngày 25-8-1883, triều Nguyễn đã phải kí tại Huế một “ Hiệp định hòa bình” ( còn gọi là Hiệp ước Hácmăng), với người Pháp, thừa nhận Pháp đặt quyền thống trị trên toàn bộ đất nước Việt Nam. Từ đây, triều đình Huế thừa nhận Nam Kì là thuộc địa của người Pháp, còn lại Trung Kì, Bắc Kì thuộc chế độ bảo hộ. Phần đất từ Bình Thuận trở vào Nam là thuộc địa : Côsanhsin (Cochinchine) tức Nam Kì; phần đất từ Khánh Hòa tới Đèo Ngang là theo chế độ nửa bảo hộ: An Nam tức Trung Kì; phần đất từ Đèo Ngang ra Bắc là theo chế độ bảo hộ của Pháp: Tôngcanh ( Tonkin) tức Bắc Kì. Đồng thời người Pháp cũng tước bỏ hoàn toàn quyền ngoại giao của triều đình Huế. Nói như cách nói của F. Angghen: dân tộc Việt Nam đã mất hành động độc lập trong lịch sử.
Đứng trước vận mệnh lớn lao của lịch sử, nhân dân Việt Nam đã liên tục đứng lên chống Pháp. Những quan lại của triều đình Huế như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết v.v…, những lãnh tụ nghĩa quân như Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực ở Nam Kì, như Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Cầm Bá Thước v.v…, ở Bắc Kì, Trung Kì , liên tục đứng lên đánh Pháp, bằng lòng yêu nước nồng nàn của mình. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, tuy rất kiên cường, anh dũng nhưng đều bị thất bại.
Công cuộc bình định Việt Nam của thực dân Pháp căn bản hoàn thành và chúng bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa.
Bắt đầu từ Pôn Đume ( Paul Doumer) với nhiệm kỳ toàn quyền Đông Dương ( 1897- 1902), cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương bắt đầu. Viên toàn quyền Đông Dương này đã tổ chức và kiện toàn cơ chế phủ toàn quyền, đẩy mạnh việc khai thác thuộc địa trên mọi lĩnh vực. Tác động của công cuộc khai thác thuộc địa này với xã hội cổ truyền rất mạnh mẽ. Những năm hai mươi của thế kỉ XX, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông Dương được đẩy nhanh về tốc độ lẫn bề rộng và bề sâu. Theo ý đồ của Anbe Xarô ( A. Sarraut) , tư bản Pháp đầu tư rất nhiều vào nông nghiệp.
Tuy nhiên, cả hai lần khai thác thuộc địa, thực dân Pháp không hề chủ trương xóa bỏ các quan hệ kinh tế cổ truyền mà chủ trương duy trì các quan hệ ấy. Diện mạo xã hội Việt Nam thời kì này sẽ bao gồm cả quan hệ tư bản thực dân và cả các quan hệ phong kiến.
2.Chính sách văn hoá của người Pháp
Bộ máy thống trị thực dân đã thực thi một chính sách văn hóa nhằm củng cố địa vị thống trị của chúng ở Đông Dương.
Ở lĩnh vực văn hóa, tổ chức đời sống xã hội, chính sách văn hóa nhằm củng cố địa vị thống trị của chúng ở Đông Dương.
Ơ lĩnh vực văn hóa, tổ chức đời sống xã hội, chính sách chia để trị của thực dân Pháp chỉ tác động tới phần nổi ở bên trên với cả ba vùng: Bắc, Trung, Nam. Cơ cấu xã hội cơ sở: làng xã vẫn tồi tại, thậm chí, người Pháp còn duy trì tổ chức làng xã nhằm sử dụng bộ máy kì hào phong kiến để làm các công việc cho chính quyền thuộc địa. Ý đồ này bộc lộ rất rõ qua lời của viên Toàn quyền Pôn Đume (Paul Doumer): “Theo tôi, duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ kĩ mà chúng ta đã thấy, đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức cũ kĩ mà chúng ta đã thấy, đó là một điều tốt. Theo cách tổ chức này thì mỗi làng sẽ là một nước cộng hòa bé nhỏ, độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa phương. Đó là một tập thể được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về những cá nhân thành viên của nó, những cá nhân mà chính quyền cấp trên có thể không cần biết tới, điều đó rất thuận lợi cho công việc của chính quyền. Tác động ngoài ý muốn của chính quyền cai trị đối với văn hóa từ thái độ này lại là sự tạo điều kiện để văn hóa, nhất là văn hóa dân gian của người Việt được giữ vững. Bởi lẽ, cơ cấu tổ chức làng xã không bị phá vỡ.
Ơ lĩnh vực giáo dục, ban đầu người Pháp duy trì Nho học với chế độ khoa cử đã lỗi thời nhằm lợi dụng Nho giáo để duy trì trật tự xã hội. Việc này kéo dài mãi đến dầu thế kỉ XX, ở Trung Kì năm 1918, ở Bắc Kì mới bãi bỏ chế độ thi cử bằng chữ Hán.
Tuy nhiên, để có công chức cho chính quyền thuộc địa, thực dân Pháp vẫn phải mở các cơ sở đào tạo loại naỳ. Năm 1897, chúng mở trường Hậu bổ ở Hà Nội, cải tổ trường Quốc Tử Giám ở Huế, mở trường Sư phạm sơ cấp ở Hà Nội. Đồng thời, đối phó với các phong trào yêu nước như Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, Duy Tân, người Pháp cùng với Nam triều thành lập bộ Học, sửa đổi quy chế thi Hương và Thi Hội. Năm 1908, viên toàn quyền Klôbuycốpxki vẫn bắt đóng cửa trường đại học cho đến năm 1917, viên toàn quyền Anbe Xarô mới cho mở cửa trở lại. Tuy là trường đại học nhưng các văn bằng của trưòng này không có sự tương đương với văn bằng ở chính quốc.
Ngoài các trường học, người Pháp còn mở một số cơ sở nghiên cứu khoa học như Viện vi trùng học ở Sài Gòn (1891), Nha Trang (1896), Hà Nội (1900), trường Viễn Đông Bác Cổ (1898) v.v…
Mục đích giáo dục của chính quyền thuộc địa không hoàn toàn là vì nâng cao dân trí cho người dân thuộc địa, mà chủ yếu nhắm đào tạo ra một đội ngũ công chức, để phục vụ cho nhà nước bảo hộ. Một tầng lớp trí thức mới xuất hiện sẽ thay thế địa vị của lớp Nho sĩ cũ trong xã hội, trên văn đàn.
Đồng thời, nếu như trong suốt hơn hai thế kỉ cho đến năm 60 của thế kỉ XIX, chữ Quốc ngữ chỉ dùng trong nội bộ đạo Thiên chúa, để in các sách đạo, thì sau khi chiếm được Nam Kì, người Pháp đã nhìn thấy chữ Quốc ngữ là công cụ thuận lợi cho việc cai trị và đồng hóa văn hóa, vì thế, họ khuyến khích học chữ Quốc ngữ.Trong trường học ở Nam kì, chữ Quốc ngữ được dạy trong các trường học, trong các công văn giấy tờ bên cạnh chữ Nho. Như vậy là, ban đầu, đi từ thứ chữ dùng trong nội bộ đạo Thiên chúa tới chỗ phổ cập, chữ Quốc ngữ được truyền bá bằng phương pháp cưỡng chế.
Mặt khác, để thông báo các chính sách thực dân, và ca ngợi “công ơn khai hóa, truyền bá văn minh Đại Pháp”, thực dân Pháp cho báo chí phát triển ở Nam Kì sau rộng ra trên cả đất nước.
Tựu trung, chính sách về phương diện văn hóa của người Pháp nhằm phục vụ cho sự cai trị và các công cuộc khai thác thuộc địa của chính quốc. Nằm ngoài ý định của kẻ đi xâm lược, tác động của những chính sách này đối với diễn trình văn hóa Việt Nam giai đoạn này không phải là không có.
III. Nội dung giao lưu văn hoá Việt – Pháp thời Pháp thuộc
1. Văn hoá vật chất
Ngay từ đầu, người Pháp đã triển khai phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông. Đương nhiên là với muc đích rất rõ ràng là khai thác thuôc địa
- Trong lĩnh vực đô thị , từ cuối thế kỷ XIX ,đô thị Việt Nam từ mô hình cổ truyền với chức năng trung tâm chính trị đã chuyển theo mô hình đô thị công nghiệp – thương nghiệp chu trọng chức năng kinh tế . Nhiều nhà máy , xí nghiệp hình thành trong các đô thị , Ở đô thị lớn hình thành một tầng lớp tư sản dân tộc ; Các trường trung học và đại học cũng ra đời trong các đô thị . Nhiều đô thị và thị trấn nhỏ cũng dần dần phát triển .
Xuất hiện các kiến trúc đô thị kết hợp khá tài tình phong cách phương Tây với tính cách dân tộc ,phù hợp với điều kiện thiên nhiên Việt Nam , chẳng hạn ,các toà nhà của Trường Đại học Đông Dương , Bộ Ngoại giao , Trường Viễn Đông Bác cổ …. Đã sử dụng hệ thống mái ngói ,bố cục kiểu tam quan , lầu hình bát giác … làm nổi bật tính dân tộc . Ở thành phố Sài Gòn , toà Đô Chánh ( nay là trụ sở uỷ ban nhân dân thành phố ) ,được xây dựng từ năm 1898 , Toà án được xây từ năm 1873 … Các công trình kiến trúc đô thị Sài Gòn được chia làm hai gai đoạn : giai đoạn bình định bằng bạo lực ,kiến trúc được “bê nguyên xi nghệ thuật địa phương mà họ khinh miệt ” . Nhưng ở giai đoạn sau các công trình kiến trúc ,văn hoá , xã hội đã chú ý hơn đến yếu tố địa lý ,khí hậu và nghệ thuật địa phương .
- Về công nghệp : nhiều ngành công nghiệp khác nhau ra đời như khai mỏ, chế biến nông lâm sản , công nhgiệp thực phẩm … làm cho bộ mặt kinh tế Việt Nam trước đây chủ yếu là nông nghiệp thì bây giờ có thêm các ngành khác. Truyền thống lâu đời của dân Việt Nam là nông nghiệp trồng luá nước ,đến nay xuất hiện các loại cây công nghiệp từ nước ngoài mang vào như cao su … phát triển một số cây công nghiệp trong nước đay , cói , đậu lấy dầu …
-Về giao thông : hàng chục vạn dân đinh đã được huy động xây dựng hệ thống đường bộ , đường sắt , sân bay , bến cảng …. Những con đường xuyên rừng núi , đến các đồn điền hầm mỏ . Toàn bộ Đông Dương không nơi nào không có đường giao thông nếu ở đó có những tài nguyên quý giá . Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhât đã tạo ra những con đường liên tỉnh dài tới 20 ngàn Km . Đường thuỷ , nhất là ở Nam bộ được tu bổ ,khai thông tới năm 1914 tổng số độ dài đường thuỷ đã tới 1745 Km. Hệ thống đườngsắt hoàn thành vớichiều dài 2059 Km được đưa vào sử dụng vào năm 1936. Những phương tiện giao thông hiện đại đang từng bước thay thế các phương tiện giao thông truyền thống của Việt Nam . Nhiều chiếc cầu sắt hiện đại ,rất dài cũng được bắc qua những con sông lớn ở nước ta ( Cầu Long Biên ).
Hệ thống đường sá và đô thị phát triển tạo cho diện mạo văn hoá vật chất giai đoạn nầy có những khác biệt so với các giai đoạn trước.
2. Văn hoá tinh thần:
a) Kitô giáo với văn hoá Việt Nam:
Lớp văn hoá giao lưu với phương Tây hình thành tư khoảng thế kỷ XVI - XVII ,song những ngưòi phương Tây đầu tiên đã tới Việt Nam và Đông Nam Á sớm hơn nhiều ,vào khoảng đầu công nguyên họ đem đến cac đồ trang sức, pha lê , vũ khí , áo giáp …. Đổi lấy các đồ quý hiếm của Đông Nam Á như trầm hương ,kỳ nam , vàng , đá quý , yến sào ,đồi mồi , ngà voi , tê giác … và đặc biệt là hồ tiêu và các loại gia vị dùng để bảo quản thịt . Không phải ngẫu nhiên mà giới nghiên cứu đã gọi tuyến đường biển từ Địa Trung Hải đến Việt Nam và Đông Nam Á thời đó la Đưòng hồ tiêu.
Sau thời Trung cổ nặng nề khiến cho sự giao lưu bị gián đoạn ,sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi nhận “vào năm Nguyên Hoà thứ I đờivua Lê Trang Tông (1533 ) có môt người Tây dưong tên là I-nê – khu ( Inatio ) theo đường biển lẻn vào giảng đạo Gia tô ở các làng Ninh Cường ,Quần Anh ,Trà Lũ ( thuộc Nam Định cũ ) ”. Từ đó các giáo sĩ Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha tìm đến ngày càng đông . Ban đầu ,do chưa quen phong thổ ,chưa thông thạo ngôn ngữ nên việc truyền giáo ít thu được kết quả .Dần dần công việc tiến triển ngày càng khá hơn . Theo tài iiệu của giaó hội thì đến năm 1593 , ở Nghệ An đã có đến 12 làng Công giáo toàn tòng . Ki tô giáo đã mở đầu cho sự giao lưu văn hoá giữa Việt Nam với phương Tây.
Ki- tô giáo ( hay Cơ đốc giáo ,Thiên Chuá giáo ) là tên gọi chung cho tất cả các tông phái cùng thờ chúa Jesus Christ . Ki tô giáo ra đời như một nhánh của Do thái giaó ở vùng Palestin ,rồi nhanh chóng phát triển thành một tôngiáo độc lập - tôn giáo của những người bị áp bức .Ban đầu , do bị giới chủ nô La Mã ngăn cản và bức hại . Đến thế kỷ IV ,hoàng đế Constanti đệ nhất ra chỉ dụ tha đạo và công nhận Ki tô gáo là quốc giáo .
Trong quá trình phát triển , đến khoãng năm 974-1054 ,Ki tô giáo đã tách ra thành hai giáo hội : giáo hội phía Tây gọi là Công giáo ( có nghĩa là đạo chung cho toàn thế giới ), lấy Roma làm trung tâm ( nên còn gọi là Công giáo La Mã , đôi khi gọi là La Mã giáo ) và giáo hội phía Đông gọi là Chính thống giáo lấy Constantism làm trung tâm.
Đến năm 1520 , cùng với sự phát triển của giai cấp tư sản , phong trào cải cách tôn giáo do mục sư Đức tên là M. Luther cầm đầu dẫn đến một cuộc phân liệt thứ hai , từ khối Công giáo La Mã đã tách ra một dòng mới là đạo Tin lành . Đạo Tin lành chiu ảnh hưởng đậm nét của tư tưỏng dân chủ tư sản và khuynh hưóng tự do các nhân : phủ nhận quyền lực của toà thánh và công đồng chung , chỉ thừa nhận Chúa Jesus và kinh thánh ,cho rằng bà Maria chỉ đồng trinh đến khi sinh chủa Jesus ( do sự phản đối giáo quyền La Mã ,cho nên có tên gọi là Protestanism , nghĩa là Thệ phản ) . Vào thế kỷ XVI còn diễn ra cuộc ly khai thứ ba : Anh giáo ,tách ra khỏi Công giáo La Mã .
Sự tiếp xúc văn hoá trong giai đoạn đầu diễn ra trên phương diện tôn giáo và thương mại . Vươn cánh tay tới phương Đông xa xôi nầy , nhà truyền giáo và nhà tư bản tất yếu có nhu cầu liên kết chặt chẻ với nhau. Nhà truyền giáo muốn mở rộng nước chúa cần phương tiện để đi xa . Nhà tư bản muốn kiếm lời cần người am hiểu thị trường nên sẳn sàng giúp đở tài chính cho các giáo sĩ và chở họ đi bất cứ nơi đâu . Bù lại , khi đến nơi ,các giáo sĩ sẽ vừa đi truyền đạo , vừa tìm sẳn các nguồn hàng quý hiếm , nhiều khi các giáo sĩ giúp nhà buôn bằng cách can thiệp với chính quyền địa phưong cho phép họ buôn bán .
Trong việc buôn bán và truyền đạo trong giai đoạn nầy , các giáo sĩ và thương nnhân phưong Tây thường phục tùng nghiêm chỉnh các quy định của nhà nưóc phong kiến . Đổi lại , các chính quyền phong kiến Việt Nam rất niềm nở đón tiếp họ . Cả chúa Nguyễn , chúa Trịnh và vua Lê đều muốn tranh thủ lực lượng nầy để củng cố thế lực ,phát triển kinh tế và tăng cưòng tiềm lực quân sự để kiềm chế và chông lại đối phương . Trong khi đó thì ở châu Âu , chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh và đi vào con đường thực dân , chi phối mọi hoạt động của xã hội .
Cuối năm 1624 , giáo sĩ ngưòi pháp Alxandre de Rhodes ( 1591 – 1660 ) , thường phiên âm là Á lịch sơn Đắc Lộ , thuộc giáo hội Bồ Đào Nha ,sau mấy năm truyền giáo ở đàng Trong và Đàng Ngoài , đã trở về châu Au vận động toà thánh Rô ma giao cho Pháp quyền truyền đạo ở Viễn Đông .Kết quả là năm 1658 ,giáo hoàng đã phong cho hai giáo sĩ Pháp là Francois Pallu và Lambert de la Motte làm giám mục cai quản hai địa phận Đàng Trong và Đàng Ngoài . Năm 1664 , Hội thừa sai Pari ,thường gọi lả Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp được thành lập .
Cuộc nội chiến Nguyễn Anh – Tây Sơn vào thế kỷ XVIII là một cơ hội tốt cho cho sự bành trướng của Hội truyền giáo nước ngoài của pháp và sự can thiệp cuả thực dân Pháp . Giám mục Pièrre Pigneaux de Béhaine ( 1741 – 1799 ) , thường được phiên âm là Bá Đa Lộc, còn gọi là cha Cả , đại diện của toà thánh ở Đàng Trong ,đã trở thành người đỡ đầu tích cực cho Nguyễn Anh .Ong đã đưa hoàng tử Cảnh đi Pháp ,và năm 1787 đã đại diện cho Nguyễn Anh kí với Pháp hiệp ước Versailles . Sau đó , do xãy ra cách mạng Pháp 1789 ,hiệp ước Versailles không được hiện . Bá Đa Lộc đã tự mình mộ quân và sắm vũ khí giúp Nguyễn Anh đánh Tây Sơn . Hoạt động của Ba Đa Lộc đã giúp cho nước Pháp có được một chổ đứng vững chắc ở Việt Nam về tôn giáo và chính trị .
Sau khi lên ngôi vào năm 1802 , lấy niên hiệu là Gia Long , Nguyễn Anh lâm vào một tình thế nước đôi : Môt mặt chịu ơn các giáo sĩ và ân nhân Pháp , do vậy ông đã ban thưởng hậu và sử dụng một số làm cố vấn và quan lại trong triều ; mặt khác lại lo ngại sự phát triển của Ki to giáo trước mắt sẽ ảnh hưởng xấu đến truyền thống đạo đức và thuần phong mỹ tục cổ truyền , sau nữa có thể làm mất ổn định chính trị và dẫn đến nguy cơ mất nước .
Để đối phó với tình hình nầy , Nhà Nguyễn chủ trương “bế môn toã cảng ” trong giao lưu và giữ nguyên hiện trạng đạo Ki tô chứ không khuyến khích phát triển . Trong chiếu ban hành tháng giêng năm 1084 , nhân nói với dân chung Bắc Hà về việc thơ thần Phật ,vua Gia long đã tuyên bố :” dân các tổng nào có nhà thờ Gia tô đổ nát thì phải đưa đơn trình quan trấn mới được tu bổ , dựng nhà thờ mới thì đều cấm”.Để bảo tồn văn hoá và tạo điều kiện giữ ổn định chính trị ,nhà Nguyễn đã khôi phục Nho giáo là Quốc giáo ,Gia Long từng căn dặn Minh Mạng :”Hãy biết ơn ngưòi Pháp ,nhưng đừng bao giờ để họ đặt chân vào triều đình của con”.
Dưới thời Minh Mạng ( 1820-1840 ), ý đồ xâm lược của Pháp càng lộ rõ . Qua thời Thiệu Tri ( 1841- 1847 ) ,sang thời Tự Đức ( 1848 – 1883 ) , cuộc leo thang xâm lược của Pháp ngày càng gia tăng .Những người Pháp làm quan tại triều đình nhà Nguyễn và nhiều cha cố đã báo về chính phủ Pháp nhiều tình báo quan trọng , một số giáo sĩ theo tàu chiến Pháp xâm nhập Việt Nam ….. Không phân biệt được bọn thực dân đội lốt tôn giáo và tay sai với con chiên nhẹ dạ cả tin và những giáo dân lương thiện , Minh Mạng , rồi Thiệu Trị và Tự Đức đã ra một loạt chỉ dụ cấm đạo . Việc cấm đạo và giết giáo dân đến lượt mình lại tạo ra một cớ rất mủi lòng cho bọn thực dân can thiệp vũ trang ráo riết hơn .cái sai nầy kéo theo cái sao khác . Trước sức ép của Pháp , tháng 5/ 1862 Tự Đức buộc phải ký với Pháp Hoà ước Nhâm Tuất , theo đó thì triều đình phải nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ và bỏ cấm đạo . Sự kiện nầy đã khiến nhiều nhà Nho yêu nước phản ứng quyết liệt , họ dấy lên phong trào “Bình Tây sát tả” ( dẹp giặc Tây , giết tả đạo ) kéo dài tới thời kỳ Cần Vương .
Trong khi gây nên cảnh cốt nhục tương tàn đó , bọn thực dân không quan tâm gì đến đời sống của giáo dân .Ngay cả giữa các giáo sĩ thừa sai với giáo sĩ bản xứ cũng luôn có một sự phân biệt đối xử nhiều khi tới tàn nhẫn ( mãi năm 1933 toà tòa thánh Roma mời phong chức giám mục cho người bản xứ đầu tiên là Nguyễn Bá Tòng ) . Năm 1954 , khi Pháp đã thất bại ỡ Điện Biên Phủ , bọn thực dân đội lốt tôn giáo còn tung tin “Chúa đã vào Nam” để lội kéo một số lớn tín đồ từ Bắc vào Nam , gây nên sự xáo trộn lớn trong cuộc sống của lương dân .
Sau bốn thế kỷ truyền đạo ,tới nay Ki tô giáo đã có chổ đứng vững chắc ở Việt nam với khoãng hơn 5 triệu tín đồ và nửa triệu tín đồ Tin Lành , song con số nầy chưa phải là lớn . vào Việt Nam khi chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng ,Phật giáo thì suy đồi và Nho giáo thì không bàn đến kiếp sau , Ki tô giáo đã có nhều cơ hộ trở thành chổ dựa tinh thần cho ngưòi dân đang cần niềm an ủi . Nhưng Ki tô giáo đã không tranh thủ được hoàn cảnh thuận lợi ấy mà trở thành đạo của số đông là bởi hai lý do chủ yếu :
Thứ nhất , khác với phương Tây , trong quá trình thâm nhập vào Việt Nam xa xôi , hoạt động truyền giáo đã dính líu và thoã hiệp với hoạt động của kẻ thực dân xâm lược . Trong luận án tiến sĩ quốc gia khoa học chính trị bảo vệ tại tại đại học Pari năm 1968 ông Cao Huy Thuần đã viết :”Khi khảo cứu lịch sử thực dân của châu Au vào thế kỷ XIX , chúng ta chú ý ngay đến sự đi đôi giữa hoạt động truyền giáo và hoạt động quân sự …. Nhưng chữ “đi đôi “ vẫn còn phải bàn cãi , vì như một nhà ngoại giao Pháp đã nhận xét một cách mĩa mai “đó là những con đường song song mà trái với mọi định luật hình học lại thường gặp nhau”. Nói cách khác , Phúc âm được truyền bá trong khắp thế giới Á, Phi là nhờ vào sự chinh phục xâm lăng của người Au châu ” , “Mỗi bước tiến của sự xâm lăng thuộc địa tương ứng với một bước “leo thang” của đạo Gia tô ,và ngược lại . “ Trong cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp , Nguyễn Ai Quốc đã phải dành cả một chương viết về Chủ nghĩa giáo hội :”Hàng giáo sĩ thuộc địa không những phải chịu trách nhiệm gây ra chiến tranh thuộc địa , mà còn là bọn kéo dài chiến tranh , bọn chủ trương đánh đen cùng , không chịu điều đình “non” … Một hoà ước với người Việt Nam dù có lợi bao nhiêu cũng chẳng thoã mãn được lòng ham muốcn của các ông ấy . Họ muốn đánh chiếm hết cả nước và lật đổ triều đại đang trị vì .Giám mục Pellerin đã nhiều lần nói như thế và đó cũng là ý kiến của giám mục Lefebvre ”, Người Việt Nam với truyền thống bao dung ,vốn dễ chấp nhận mọi tôn giáo ngoại lai , miễn là nó đến với thiện chí hoà bình , ấy vậy mà vào thời kỳ nầy lần đầu tiên đã xuất hiện sự đối lập giữa “bên giáo ” vời “bên lương ”.
Thứ hai , khác với các tôn giáo được hình thành ở Á Đông đã vào Việt Nam trước như Phật giáo , Đạo giáo , Ki tô giáo là tôn giáo mang đậm tính cách cứng rắn của truyền thống văn hoá phương Tây , do vậy mà , trong một thời gian dài ,khó hoà đồng được với văn hoá Việt Nam . Klhi truyền giáo ở các nước gần gũi về địa lý và tương đồng về văn hoá , những tính cách nầy ít dẫn đến xung đột . Nhưng khi đến phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng , nó gây nên một sự tương phản rỏ nét . Ông Nguyễn Tử Lộc đã viết :” Sự truyền đạo Công giáo vào Việt Nam và sự phát triển của đạo … có một tính cách rất ngoại quốc đối với phần còn lại của dân tộc . Tính cách ngoại quốc gồm cả hình thức đến nội dung , từ lễ nghi , nghệ thuật đến lối sống ,tín ngưỡng . Đạo Công giáo có vẽ rất Tây , từ cầu kinh La tinh đến ảnh tượng thờ , đến kiểu kiến trúc giáo đường , đến quan niệm con người và vũ trụ ”.
Nổi bật trong mối quan hệ nầy là mâu thuẩn giữa một bên là truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam với bên kia là tính độc tôn của Ki tô giáo không chấp nhận việc thờ cúng ai ngoài Chúa . Không chỉ việc thờ cúng tổ tiên mà cả Tam giáo ( Nho , Lão , Phật ) cũng bị các giáo sĩ coi là “mê tín dị đoan” và phủ nhận .Ngay từ thời đó , cũng đã có không ít giáo sĩ nhận ra rằng quan niệm cực đoan nầy là “lạc đường và gây trở ngại không thể vượt qua được cho việc truyền đạo”. Cho tới Công đồng Va ti căng II ( 1962-1965 ) ,những sự khác biệt và các sắc thái văn hoá địa phương mới được hoà đồng .
Trong quá trình tiếp thu văn hoá , Người Việt Nam bao giờ cũng thâu hoá linh hoạt , tiếp nhận những gì có ích và biến đổi cho phù hợp. Ngay trong lĩnh vực Ki tô giáo, với những ngôi nhà thờ cao vút có đỉnh nhọn thoắt, thì nhà thờ Phát Diệm lại xuất hiện dạng kiến trúc dân tôc thấp, trãi rộng và có mái cong . Hiện nay người Ki tô hữu Việt Nam đang thực sự hoà mình với dân tộc, ở trong lòng dân tộc, vì dân tộc, xây dựng cho mình truyền thống “kính Chúa ,yêu nưóc” và đề cao tình thần Sống phúc âm trong lòng dân tộc
b) Văn tự – ngôn ngữ
Khi truyền đạo sang Việt Nam , khó khăn đầu tiên mà các giáo sĩ mắc phải là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự . Bởi vậy ,họ đã dùng bộ chữ cái La tinh thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt , tạo nên chữ Quốc ngữ. . chữ Quốc ngữ là thành quả tập thể của nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha , Ý , Pháp … và những ngưòi Việt Nam đã giúp họ học tiếng Việt . Song công lao lớn nhất thuộc về linh mục Alexandre de Rhodes ( 1591-1660 ) , ngưòi đã kế thừa các công trình của Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa, biên soạn và xuất bản ơ Roma vào năm 1651 cuốn từ điển Annam – Lusian- Latin ( thường gọi là từ điển Việt – Bồ – La ) và cuốn Phép giảng tám ngày in song ngữ Latin – Việt . Tuy chữ Quốc ngữ ban đầu chỉ là công cụ truyền đạo của các giáo sĩ , nhưng do có ưu điểm là dễ học ,nên được các nhà Nho tiến bộ tích cực truyền bá để phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí ( hội truyền bá chữ quốc ngữ ) .
Sự tiếp xúc với phương Tây cũng khiến cho tiếng Việt có biến động mạnh : hàng loạt từ ngữ được vay mượn để diễn tả những khái niệm mới đã đi vào đời sống thường ngày như xà phòng / xà bông ( savon ) kem ( crème ) ga ( gaz ) …. Có những hiện tượng ngữ pháp vốn đặc thù cho các ngôn ngữ phương Tây ( như thể bị động , kiến trúc danh từ ….) ở những mức độ nhất định cũng đã du nhập vào tiếng Việt .
c) Văn học – nghệ thuật :
Sau khi đã phát triển tới đỉnh cao rực rỡ ở thế kỉ XVIII, nửa đầu thế kỉ XIX, văn học ở nửa sau thế kỉ XIX, đi vào cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận này. Cùng với ông là một thế hệ các nhà văn thơ yêu nước như Phan Văn Trị, Hồ Huân Nghiệp, Đoàn Hữu Trưng, Phạm Văn Nghị v.v… Sau đó là thế hệ Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương v.v…
Sau thế hệ này là thế hệ các nhà Nho như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền v.v… về phương diện chính trị lúc này là một thứ vũ khí của quần chúng để chống kẻ thù cướp nước, cổ động cho sự tiến bộ xã hội. Do tác động khách quan, văn học giai đaọn này đã có bước phát triển nhanh chóng cả về hình thức và nội dung.
Trước hết là sử dụng chữ Quốc ngữ để sáng tác văn học. Với việc phổ biến chữ Quốc ngữ, mảng văn học bằng chữ Quốc ngữ đã phá triển. Ban đầu, chữ Quốc ngữ được dùng để phiên âm các sách chữ Nôm, chữ Hán, chữ Pháp. Hàng loạt các tác phẩm chữ Hán như Đại học, Kinh thi, Minh tâm bảo giám v.v…, các truyện thơ Nôm như Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên v.v…, các truyện dân gian, câu hò, câu hát, được ra mắt bạn đọc bằng chữ Quốc ngữ ở Nam Bộ. Không thể không ghi công đầu cho một số trí thức ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX như Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của, Trần Phong Sắc, Phụng Hoàng Sang, Bùi Quang Nho, Khẩu Võ Nghi v.v… trong lĩnh vực này.
Mặt khác là sự phát triển của những sáng tác bằng chữ Quốc ngữ, như kí sự là thể loại sớm ra đời với tác phẩm Chuyến đi Bắc Kì năm At Hợi (1876) của Trương Vĩnh Kí; tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ cũng ra đời ở Nam Bộ sớm nhất. Đầu tiên phải kể tới Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, nếu coi đây là một truyện dài, một tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ thì nó đã ra mắt bạn đọc từ năm 1887. Sau đó là Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân của Trương Duy Toản ra mắt bạn đọc vào năm 1910. Cũng năm này Trần Chánh Chiếu có tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ Hoàng Tố Anh hàm oan. Thập niên hai mươi của thế kỉ XX, tiểu thuyết bằng chữ Quốc ngữ có khá nhiều tác giả: Phạm Duy Tốn với truyện ngắn Sống chết mặc bay (1918). Đó là Tân Dân Tử với Giọt máu chung tình (1926), và Lê Hoàng Mưu với Hà Hương phong nguyệt (1915), Oán hồng quần (1920), Tô Huệ Nhi ngoại sử (1920), Oan kia theo mãi (1922), Cay đắng mùi đời (1923), Tỉnh mộng (1923), Nhơn tình ấm lạnh (1925). Những tác giả này ở Sài Gòn, trong khi đó, ở Hà Nội, Nguyễn Trọng Thuật có Quả dưa đỏ (1925), Hoàng Ngọc Phách có Tố Tâm (1925).
Vào thập niên ba mươi, bốn mươi, văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ đã có một bước tiến bộ vượt bậc. Nhóm Tự lực văn đoàn với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo v.v…, đã cho ra mắt bạn đọc một loạt tác phẩm như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Bướm trắng v.v… Bên cạnh nhóm Tự lực văn đoàn là các nhà văn hiện thực phê phán như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nam Cao với Chí phèo, Vũ Trọng Phụng với Giông tố, Số đỏ v.v… Sự trong sáng của tiếng Việt trong các tác phẩm này là bước tiến của văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ. Cùng với kí, tiểu thuyết là thơ. Phong trào thơ mới xuất hiện với một loạt tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v…, khẳng định sự chuyển mình của văn học Việt Nam theo hướng hiện đại, sự thay thế vẻ vang của văn học bằng chữ Quốc ngữ trong đời sống văn hóa.
Mặt khác, sự chuyển mình của văn học Việt Nam giai đoạn này không chỉ ở phương diện hình thức. Cái tôi cá nhân, sự ý thức về cá nhân, tình yêu lứa đôi xuất hiện trong các tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn, trong các tập thơ của các nhà thơ mới là một hiện tượng mới trong văn hóa Việt Nam. Chưa bao giờ tiếng nói từ hạnh phúc cá nhân lại cháy bỏng như vậy trong văn học Việt Nam:
Mau lên chứ. Vội vàng lên với chứ
Em, em ơi tình non sắp già rồi.
Tuy nhiên, nhìn ở phương diện công dân,sáng tạo của nhóm Tự lực văn đoàn, của phong trào thơ mới, quả có ý nghĩa như đồng chí Trường Chinh nhận định: “một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa”.
Cùng với những tác giả, tác phẩm này, sự xuất hiện của hệ tư tưởng Mác xít trong đời sống văn hóa đã dẫn tới sự xuất hiện của bộ phận các tác giả cách mạng. Thời kì từ 1931-1935 là cuộc đầu tranh giữa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và các quan điểm đối lập. Trên tờ Phụ nữ thời đàm, đồng chí Hải Triều đã viết nhiều bài về nguyên lí, quan điểm của chủ nghĩa Duy vật. Chính vì vậy, bản Đề cương có ý nghĩa như một cương lĩnh văn hóa dân chủ mới. Về sáng tác, thơ Tố Hữu và đáng kể hơn cả là các sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng nói tiêu biểu cho dòng văn học cách mạng này.
Rõ ràng, non một trăm năm, văn học Việt Nam đã có bước chuyển biến quan trọng đi từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại.
Trong nghệ thuật hội hoa thì xuất hiện những thể loại vay mượn từ phương Tây như tranh sơn dầu , tranh bột màu với bút pháp tả thực . Bút pháp tả thực của phương Tây còn xuất hiện ngay cả trên sân khấu với thể loại kịch nói và tác động tới sự ra đờ của nghệ thuật cải lương . Nghệ thuật thanh sắc tổng hợp cổ truyền bắt đầu phân hoá thành hàng loạt bộ môn như ca , muá , nhạc , kịch …
d. Báo chí :
Khởi điểm để báo chí ra đời ở Việt Nam là từ ý đồ của thực dân Pháp cần có một thứ vũ khí nhằm tuyên truyền cho chính quyền thuộc địa. Do vậy, báo chí ra đời ở Sài Gòn trước tiên. Lúc đầu là tờ báo bằng tiếng Pháp Le Bulletin officiel de (Expédition de la Cocinchine và tờ Le Bulletin des commune bằng chữ Hán). Ngày 15-4-1865, tờ Gia Định báo ra đời. Sau tờ Gia Định báo là tờ Phan Yên báo. Năm 1888, tờ Thông loại khóa trình của Trương Vĩnh Ký được phát hành. Năm 1901, tờ báo thứ ba bằng chữ Quốc ngữ ra mắt bạn đọc là tờ Nông cổ mím đàm. Sau đó tờ Lục tỉnh tân văn ra mắt bạn đọc thế giới, ở Sài Gòn. Báo chí ra đời rất nhiều như Nữ giới chung, Phụ nữ tân văn, Đuốc nhà Nam v.v…
Ơ Hà Nội, có các bào bằng chữ Quốc ngữ như Đăng cổ tùng báo, Hữu Thanh, Thực nghiệp dân báo, Nam phong, Trung Bắc tân văn v.v…
Nói chung, những tờ báo bằng chữ Quốc ngữ ở cả ba miền trong thời kì này, dù vô tình hay hữu ý đều góp phần vào sự phát triển văn học chữ Quốc ngữ.
Ngoài những tờ bào bằng chữ Quốc ngữ, một thế kỉ này ở cả ba đô thị: Hà Nội, Huế, Saì Gòn đều có những tờ báo bằng chữ Pháp nhằm phục vụ chính quyền đó, nhưng cũng có thể có những tờ báo tiến bộ chẳng hạn tờ L’Annam, tờ La Cloche fêlée (Chuông rè) ở sài Gòn, tờ Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), tờ Le Travail (Lao động), tờ Rassemblement (Tập hợp), Enavant (Tiến lên) ở Hà Nội trong thời kì 1936-1939.
Trong giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945, việc dùng chữ Quốc ngữ để làm báo đã là bước đột biến của diễn trình văn hóa. Nhìn ở phương diện ngôn ngữ văn tự, đấy là một bước đột biến. Nhìn ở phương diện lịch sử báo chí, đây cũng là một bước đột biến.
e. Giáo dục , khoa học :
Để đào tạo người làm việc cho mình , thực dân pháp đã buôc học trò học tiếng Pháp , bắt theo hệ thống giáo dục kiểu phương Tây . Năm 1898 , chương trình thi Hương có thêm hai môn Quốc ngữ và Pháp văn . Năm 1906 lập ra Nha Học chính Đông Dương và định ra ba bậc học cơ sở là ấu học ,tiểu học và trung học . Trong những năm nầy , nhà cầm quyền lập ra môt số trường Cao đẳng và đến năm 1908 thì mở ra trưòng Đại học Đông Dương . Hệ thống Nho học tàn lụi dần . Đến năm 1915 ở Bắc kỳ và 1918 ỡ Trung kỳ việc thi Hương bị bãi bỏ , chấm dứt nền Nho học Việt Nam .
Hệ thống giaó dục mới cùng với sách vở phương Tây đã góp phần giúp ngườ Việt Nam mở rộng tầm mắt ,tiếp xúc với các tư tưởng dân chủ tư sản , rồi sau là tưởng Mácxít . Truyền thống đạo học cùng với lối tư duy tổng hợp nay được bổ sung thêm kiểu tư duy phân tích . Nó được rèn luyện qua báo chí, giáo duc và những hoạt động của những cơ quan như Trường Viễn Đông Pháp ( thành lập 1901 tại Hà Nội ) Viện vi trùng học ( thành lập ở Sào Gòn 1891 , Nha Trang 1896 , Hà Nội 1902 ) Nền khoa học hiện đại manh nha từ thời thưộc Pháp này đến khi giao lưu với liên Xô và hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa , đã trở nên thực sự vững mạnh và phát triển .
f. Hệ tư tưởng :
Là tấm gương phản chiếu nhiều mặt đời sống và nếp sống của cộng đồng , một dân tộc , ơ trung tâm của văn hoá quyển , hệ tư tưởng củng được xem như là một hệ văn hoá . Sự tiếp xúc ,giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và phương Tây tạo ra sự chuyển mình của hệ tư tưởng Việt Nam từ 1858-1945 diễn ra trong một thời kì đầy biến động về tư tưỏng và chính trị . Gần một trăm năm ở Việt Nam xuất hiện và tồn tại nhiều hệ tư tưởng khác nhau , tác đông lẫn nhau , hoà hợp lẫn nhau , tự biến dạng do khúc xạ qua môi trường xã hội … tạo nên một trường tư tưởng rất phức tạp.
Trên mặt bằng lịch sử , các hệ tưởng vào Việt Nam từ hàng nghìn năm trước vẫn tồn tại ở xã hội mà căn bản vẫn là xóm làng với những người nông dân trồng lúa nước . Dù có biết bao biến động trầm luân trên bề mặt lịch sử thì hệ tư tưởng của họ vẫn là hệ tư tưỏng thần thoại với một hệ thống thần linh đa dạng .
Nho giáo tồn tại như một hệ tư tưởng vì có vị trí đặc biệt ở nhà hậu Lê , nhà Nguyễn bây giờ không giúp các Nho sĩ trả lời được câu hỏi lớn của thời đại . Những phong trào Văn thân ,Cần vương đưới ánh sáng của tư tưỏng Nho giáo không giúp các Nho sĩ tìm được con đường cứu nước . Nói cách khác , yêu nước chống Pháp kiểu nầy là bảo thủ ,nên đã thất bại . Các Nho sĩ thế hệ sau với tấm lòng yêu nước của mình đã tổ chức cuộc vận động giải phóng dân tộc theo một hệ tư tưởng khác . Trào lưu tư tưỏng dân chu tư sản qua tân thư và tân văn Trung Quốc như Am băng thất , Trung Quốc hồn , Mậu Tuất chính biến ,Tân dân tuỳ báo … của Lương Khãi Siêu , Khang Hữu Vi , các thuyết về nhân đạo, dân quyền của những nhà phát ngôn của giai cấp tư sản Pháp lúc đang lên như Rousseau, Montesquiseu,Vonte… được đi vào Vệt Nam . Tự cảnh tỉnh để đổi mới ,tìm một con đưòng đi khác , các nhà Nho đã từ biệt hệ tư tưởng quen thuộc của bao nhiêu thế hệ trưóc . Phan Bội Châu ( 1867-1940 ) là một nhân chứng tiêu biểu .Với Duy tân hội ,ông còn giử tư tưởng quân chủ . Với Việt Nam Quang phục hội ,ông đã chuyển sang tư tưởng dân chủ . Sau khi gặp gỡ Nguyễn Ai Quốc , và ở cuối đời ông còn viết sách về Chủ nghĩa xã hội . Đi từ hình mẫu nầy sang hình mẫu khác ,ước nguyện duy nhất của Phan Bội Châu vẫn chỉ là giành lại quyền độc lập dân tộc .
Vượt ra ngoài ý đồ của bọn thực dân, sự áp đặt thô bạo của chúng dẫn đến hậu quả ngược lại là khích lệ tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và chống Pháp . Xuất hiện Nguyễn Trường Tộ với những bản điều trần, Phan Chu Trinh với phong trào Duy Tân...
Từ tấm lòng yêu nước , nhà các mạng Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác Lê nin rồi truyền bá vào Việt Nam .giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển và ngày càng giác ngộ về mình . Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng và có tổ hức .Ba tổ chức cộng sản ra đời ở Bắc kỳ , Trung kỳ rồi Nam kỳ ,để rồi ngày 6/1/1930 , Nguyễn Ai Quốc chủ trì hội nghị hiệp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất . Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ,đánh dấu “một bước ngoặc vô cùng quan trọng trong lich sử cách mạng nước ta . Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng ” , đồng thời nó cũng khẵng định sự hiện diện của một hệ tư tưỏng mới ở Việt Nam
IV . Kết luận :
Giai đoạn từ 1858 đến 1945 , giai đoạn giao lưu văn hoá Việt – Pháp trong thời Pháp thuộc, nhìn ở diễn trình văn hoá , là một sự đứt gãy chưa từng có . Non một trăm năm ấy , bắt đầu từ Sài Gòn đến Hà Nội, từ Nam đến Bắc, từ thành thị đến nông thôn ,văn hoá Việt Nam có những biến thiên ghê gớm . Tuy nhiên , bản sắc văn hoá dân tộc vẫn không mất đi , không bị thay đổi . Nói các khác ,đó là văn hoá Viêt Nam mà J. Feray gọi rất hay là sự không chối từ về văn hoá trong việc tiếp thu các yếu tố ngoại sinh . Bởi vậy , sau đứt gãy nầy lại một lần nữa ,văn hoá Việt Nam phát triển tiếp nối mạch phát triển ở các thời kì trước ,với tầm vóc mới.
Quá trình đồng hoá và chống đồng hoá đã xuất hiện thường xuyên trong tiến trình văn hoá Việt Nam . Cho nên người Việt Nam biết cách để tiếp thu các yếu tố hay của bên ngoài làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc . Sự tích hợp và kế thừa liên tục làm cho văn hoá Việt Nam trở thành một khối vững chắc biết ứng xữ khéo léo với tự nhiên và luôn luôn chiến thắng những thế lực mạnh hơn mình gấp bội . Truyền thống là ổn định ,còn hiện tại phải là phát triển . Sức mạnh văn hoá bốn nghìn năm đó cũng chính là động lực phát triển cho xã hội ngày hôm nay .
***$ $ $***
Tài liệu tham khảo :
1) Cơ sở văn hoá Việt Nam –Trần Quốc Vượng chủ biên –Nhà xuất bản Giáo dục - 2004
2) Cơ sở văn hoá Việt Nam –Trần Ngọc Thêm –Nhà xuất bản Giáo dục - 2000
3) Đại cương văn hóa phương Đông – GS Lương Duy Thứ chủ biên – Nhà xuất bản Giáo dục.
4) Tiếp xúc và giao lưu văn minh trong lịch sử nhân loại – TS Ngô Minh Oanh – Nhà xuất bản giáo dục - 2005
5) Đại cưong Lịch sử Việt Nam , tập II– Đinh Xuân Lâm chủ biên- Nhà xuất bàn Giáo dục – 1998
6) Lịch sử châu Au – Đỗ Đức Thịnh biên soạn – Nhà xuất bản Thế giới – 2005.
7) Lịch sử vương quốc Chăm pa - GS. Lương Ninh – Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội – 2004.
8) Vương quốc Phù Nam – GS Lương Ninh – Nhà xuất bản Văn hoá thông tin – 2005.
MMM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét