30/7/11

Tầm quan trọng của việc Phân kỳ trong lịch sử



           I.    MỞ ĐẦU :
           Trong việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử, việc phân kỳ lịch sử là vấn đề rất quan trọng. Bất kỳ lịch sử của một dân tộc nào, của một địa phương nào  hay của một chuyên ngành đều có những mốc quan trọng, đánh dấu sự ra đời, hình thành và phát triển. Với những thay đổi và thăng trầm, những đặc điểm, những tính chất  riêng  trong quá trình đi lên của nó. Song do nằm trong bối cảnh chung của lịch sử dân tộc, cho nên lịch sử của mỗi ngành, mỗi địa phương  đều có sự gắn bó  và bị chi phối  bởi những sự kiện lớn và chung của đất nước. Vì vậy, việc nắm vững những đặc điểm tính chất  và những mốc quan trong của lịch sử  để từ đó hiểu và đặt các sự kiện của địa phương  và chuyên ngành  trong bối cảnh chung, mục tiêu chung  của cách mạng, của cả nước  là rất  quan trọng, mang tính khoa học  trong phương pháp  luận sử học Mác- xit.
       Hiện nay trên thế giới có nhiều trường phái sử học, mỗi trường phái có những cách phân ky lịch sử khác nhau, tuỳ quan điểm  khác nhau  mà có những quan niệm phương pháp phân chia các giai đoạn lịch sử khác nhau .
            Dựa vào chủ nghĩa Mác  Lênin, chủ yếu là học thuyết  về hình thái kinh   tế – xã hội, chúng ta có một  quan  niệm khoa học  và những nguyên   tắc  làm   cơ  sở chỉ  đạo cho việc phân kỳ lịch sử .
 II. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÂN KỲ LỊCH SỬ :
Con người và xã hội loài người đã xuất hiện trên quả đất hằng trăm triệu năm  trước đây. Từ đó đến nay, xã hội loài người  cũng như bản thân con người  đã trãi qua biết bao đổi thay, đã có nhiều biến chuyển, đã từ trạng thái  dã man  tiến dần lên  trạng thái văn minh, từng bước chinh phục thế giới tự nhiên  để phát triển thành xã hội tiên tiến như ngày nay. Xã hội loài người đã  trãi qua một quá trình phát triển lâu dài, từ thấp đến cao, từ  thô  sơ đến hiện đại, từ dã man  lên văn minh. Đó là “một quá trình thống nhất đầy mâu thuẩn”. Quá trình thống nhất này lại bao gồm nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn khác nhau, là những bậc thang trong  sự phát triển đi lên cuả xã hội loài người .
Để có được  một nhận thức khách quan, khoa học, tính thống nhất  và sự phân chia  các thới kỳ lịch sử, chúng ta thường nói, phải đặt sự kiện lịch sử  trong hoàn cảnh mà nó diễn ra  để phân tích, đánh giá. Như vậy, chúng ta động chạm đến vấn đề  phân kỳ lịch sử  hay nói một cách khác, phân kỳ lịch sử là  một vấn  đề phương pháp luận .
Lịch sử loài người từ khi những người vượn  đầu tiên xuất hiện  trên trái đất , đã trãi qua hằng mấy triệu năm  tồn tại và phát triển, nghĩa là đã trãi qua một quá trình tiến hoá  lâu dài và đa dạng. Ngay trong thời đại nguyên  thuỷ , xã hội loài người hầu như đứng yên một chổ,  nhưng không phải  thiên niên kỷ nào cũng  giống như thiên niên kỷ nào, không phải vùng nào cũng giống như  vùng nào  ,do đó , không phải sự kiện nào xãy ra  cũng giống như  sự kiện nào . Theo những thành tựu của khảo cổ học, tuy các xã hội  thời nguyên thuỷ  đều trãi qua một thời đồ đá  như nhau, nhưng mỗi khu vực cư dân  đều có đặc điểm của mình. Xã hõi loài người  ngay từ khi nhà nước xuất hiện, tuy cách đây khoãng 5000 năm, nhưng đã phát triển cực  kỳ nhanh chóng  về tất cả các mặt  . Sự phát triển  đó ban đầu  diễn ra trong phạm vi một quốc gia,  dần dần được mở rộng ra  và chịu sự tác động của khu vực, và sau đó nữa cho đến ngày nay. Khi mà sự giao lưu quốc tế  đã trở nên thường xuyên  vời sự hổ trợ của hàng loạt phương tiện  thông tin  thì nó cũng mang ít nhiều tính chất quốc tế. Nhu vậy, có nghĩa là xã hội loài người, nhất là những thế kỷ sau công nguyên, đã trãi qua một quá trình tiến hoá  cưc  kỳ phức tạp và đa dạng. Mỗi một sự kiện lịch sử  đều chịu sự tác động của nhiều mặt  của quá trình tiến hoá phức tạp đó , không phải chỉ trong giai đoạn diễn biến  của nó  mà còn cả trong giai đoạn nãy sinh. Mỗi một con người , như chúng ta  hiểu, là “sự tổng hoà  của các mối quan hệ  xã hội ” nên cũng phức tạp  như vậy .
Nghiên cứu lịch sử  không dừng lại ở những vấn đế lớn  có tính khái quát  mà còn mở rộng  ra ở các sự kiện, các nhân vật,  các cuộc vận động lớn nhỏ . Để có thể đạt được những nhận định, những luận điểm khách quan ,khoa học , người nghiên cứu không thể không đặt  ra hai câu hỏi lớn :
Thứ nhất, xác định thế nào cho đúng  mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan  trong sự nghiên cứu lịch sử ?
Vấn đề này được trình bày ở trên,  song khi đề cập đế sự phân kỳ lịch sử  cũng cần nhấn mạnh  một số điểm chủ quan  ở đây vừa là ở bản thân nhà nghiên cứu  vừa là của sự kiện lịch sử được nghiên cứu. Khách quan ở đây  vừa là bản thân sự kiện  lịch sử  vừa là những gì đã tác động đến nó. Tóm lại,  phải  xác định đúng những điểm cần nghiên cứu  của hoàn cảnh  tức  là của thực triễn xã hội  có quan hệ đến sự kiện  cũng như đến nhà nghiên cứu.
 Thực tiễn xã hội ở đây  vừa có phần thuộc lĩnh vực vật chất, vừa có phần thuộc lĩnh vực tư tưởng .
Thứ hai, khi nói đến  hoàn cảnh xã hội  tức là nói đến  một giai đoạn nhất định  của quá trình tiến hoá phức tạp. Do vậy  nãy sinh hai vấn đề cần giải quyết. Một là,  sự phức tạp đó  là hoàn toàn có tính cách ngẫu nhiên  hay chịu sự chi phối  của những quy luật chung ? Hai là, mỗi sự kiện lịch sử  đều do một người hay một nhóm  người  tạo nên trong một hoàn cảnh  nhất định về thời gian,  không gian, đúng như người ta nói “không có sự kiện nào giống hết như một   sự kiện nào ” nhưng có phải như  vậy  có nghĩa là xã hội loài người phát triển, tiến hoá một các  tuỳ tiện và hổn loạn, không theo một quy luật chung nào hay không ?
Hai vấn đề trên  đã xác định tầm quan trọng  của việc phân kỳ lịch sử  với tư cách là một vấn đề phương pháp luận. Sự phân kỳ lịch sử  là một vấn đề cần phải làm  và có thể làm được  trên cơ sở một quan điểm khoa học, thống nhất .
Phân kỳ lịch sử không chỉ  cần đối nhà nghiên  cứu  mà còn rất cần  đối với người làm công tác giảng dạy. Lâu nay ,cán bộ giảng dạy các khoa học xã hội  có thói quen dựa vào những ý có sẵn trong sách giáo khoa  hay theo cảm hứng chủ quan của mình để phân tích, đánh giá các sự kiện,  các nhân vật. Điều nầy tất nhiên khó tranh, nhưng nó sẽ hạn chế tính chủ động của người dạy  và khã năng tư duy độc  lập của học sinh, chưa kể những thiếu sót khác có thể vấp phải . Do đó, trong giảng dạy, đặc biệt là trong môn lịch sử, giáo viên cần phải khẳng định quan điểm của mình  khi giảng dạy một giai đoạn , một thời kỳ lịch sử nào đó  ở một nước nhất định nàođó. Nghĩa là , cần phải nắm được bản chất của một thởi kỳ  hay một giai đoạn lịch sử  , trong đó có sự kiện  mà mình phân tích, đánh giá.  Chỉ có như vậy, chúng ta mới hiểu đúng  và chủ động trong giảng dạy. Ý nghĩa tích cực nầy không chỉ có tác dụng  đối với việc truyền thụ  kiến thức  mà còn cả đối với việc  giáo dục tư tưởng .
Tóm lại, lịch sử loài người từ trước đến nay diễn ra hết sức phức tạp và đa dạng  song không tiệm tiến  trong những mối quan hệ bất biến  mà theo xu hướng phát triển  ngày càng nhanh với những thời kỳ, những giai đoạn có nội dung hoạt động  và quan hệ khác nhau, lịch sử một quốc gia, dân tộc cũng vậy .Để nghiên cứu và giảng dạy  lịch sử một cách khách quan, khoa học, cần phải phân chia lịch sử loài người  cũng như dân tộc  thành những thời kỳ,  giai đoạn phát triển nối tiếp nhau, nghĩa là  phải phân kỳ lịch sử. Phân kỳ lịch sử sẽ là  một định hướng khoa học  của nhà nghiên cứu  và người giảng dạy .
III.NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÂN KỲ LỊCH SỬ:
         Mặc dầu  giới sử học từ xa xưa đến nay đều nhận thấy tính  phức tạp , đa dạng  và không đồng đều  của lịch sư  loài người cũng như lịch sử  một dân tộc  , nhưng  để xác định thời gian  ( vì lịch sử là người  nghiên cứu sự tiến hoá của  xã hội theo năm, tháng) và tính chất, mỗi  nhóm , mỗi thời  đều thực hiện phân kỳ lịch sử  theo  quan niệm  riêng  của mình .
Ngày xưa, ở nước ta hoặc  ở Trung  quốc  do xuất  phát từ quan niệm cho rằng   chế độ quân  chủ là vĩnh hằng  nên các nhà sử học  đã  phân kỳ lịch sử  theo triều đại, theo các đời vua. Đó  cũng  là một nguyên tắc phân kỳ lịch sử, lấy  chế độ chính trị làm cơ sở. Điều này dễ  hiểu khi các nhà sử  học đó  chịu  sự  chi phối  của  tư tưởng ”thiên mệnh” và vua  là “thiên tử ”, “thay trời  trị  dân ”. Tất nhiên, ở họ  cũng  nãy sinh tư tưởng  “nước lấy  dân làm gốc ”, “vua  là thuyền, dân là  nước, nước  có thể  đẩy thuyền đi  mà  cũng có thể lật thuyền ”… nhưng nước vẫn phải có vua, “không  thể một ngày không vua ”… trong lúc đó , ở một số  nước phương Tây  trung đại theo chế độ quân chủ , mặc dù không chịu ảnh hưởng của tưởng ”thiên mệnh”, “thiên tử ”,  giới sử học vẫn viết sử  theo triều  đại .
Ngoài ra còn có trường hợp, như Hêliốt ( Hy lạp ), lấy việc sử dụng kim loại  để làm tiêu chuẩn phân kỳ lịch sử, họ chia xã hội thành  “thời đại vàng ”, “thời đại bạc ”, “thời đại đồng ”, “thời đại sắt,” …
Từ thế kỷ XVII-  XIX , sử học ngày càng  phát triển , tính chất phức tạp và đa dạng  của quá trình lịch sử càng chi phối  giới sử học. Dù thừa nhận xu thế ngày càng  phát triển   tiến lên của xã hội loài người  và hiểu rỏ sự cần thiết  phải có một sự phân kỳ lịch sử , các nhà sử hoc vẫn đưa ra rất nhiều cách phân kỳ khác nhau. Trường phái nhân văn chủ nghĩa  đi tìm nguyên nhân của sự phát triển xã hội  trong bản chất của hoạt động con người  và từ đó  đưa ra quan niệm phân kỳ lịch sử  loài người thành ba giai đoạn : cổ đại, trung đại và hiện đại . Lêvi Xtrốt,  một nhà dân tộc học Pháp nổi tiếng, ủng hộ chủ nghĩa lịch sử  nhưng lại phủ nhận quy luật phát triển lịch sử. Theo ông, mỗi dân tộc  tự tìm thấy  con đường phát triển riêng của mình , không bắt chước các nước khác. Sự phân chia thành ba giai đoạn nói trên  chỉ có ý nghĩa về mặt thời gian ,… Công-đooc-xê  thì khẳng định tính quy luật của lịch sử .
Như  vậy  có thể thấy rằng, vấn đề phân kỳ lịch sử  đòi hỏi phải giải quyết hai vấn đề khác  rất cơ bản của lịch sử loài người : một là lịch sử loài người  có chịu sự chi phối  của những quy luật phát triển khách quan không ,hay nói một cách khác, có hay không có  những quy luật phát triển  của lịch sử loài người ; Hai là: có sự thống nhất của quá trình lịch sử loài người  hay không, hay như  Lêvi Xtrốt , mỗi dân tộc có con đường phát triển riêng của mình .
Như  vậy, phân kỳ lịch sử là một vấn đề phức tạp, khó và không thể thống  nhất một cách dễ dàng được. Trong hoàn cảnh hiện nay  khi mà trong giới sử học và xã hội học  còn nhiều trường phái khác nhau  càng chưa thể có một quan điểm thống nhất  về phân kỳ lịch sử . Chính vì vậy  mà giới sử học hiện nay  nói chung, tạm giữ cách phân chia lịch sử loài người  cũng như lịch sử dân tộc thành bốn  thời đại lớn : cổ đại, trung đại, cận đại  và hiện đại. Tất nhiên, đó là những thuật ngữ chỉ thời gian, dễ thống nhất. Còn bàn đến nội dung  của  những  thời  đại đó  là gì  thì các  trường  phái co quan niệm  riêng của mình .
     Có thể nêu lên một số nguyên tắc lớn  cho việc phân kỳ lịch sử như sau :
        1. Lịch sử loài người  hay lịch sử của một dân tộc, trừ những trường hợp đặc biệt, dù có lúc lên lúc xuống, yếu mạnh khác nhau, đều phát triển theo xu hướng đi lên, ngày càng tiến triển .
       2.Theo quan điểm của sử học Mác xít , sự phát triển đó của lịch sử loài người chịu sự chi phối  của những quy luật khách quan , thống nhất . Những quy luật khách quan thống nhất này   không phải sinh ra từ bên ngoài xã hội loài người , do “thượng đế ” tạo ra, mà là xuất phát từ  sự tiến triển nội tại  của sự vật  được các nhà khoa học  phát hiện và đúc kết .
Tất nhiên , quy luật  khách quan vừa  mang tính tất yếu  vừa mang tính định hướng. Việc phân kỳ lịch sử, nhất là phân kỳ lịch sử dân tộc, không thể không tuân thủ  nguyên tắc thống nhất  có tính quy luật đó  nhưng đồng thời không thể áp đặt  một cách máy móc, cứng nhắc nguyên tắc đó  vào bất kỳ đối tượng nào .luôn luôn cần nhớ rằng, quá trình tiến hoá của xã hội loài người  hết sức phức tạp và đa dạng, chịu sự chi phối của hàng loạt nguyên tố khách quan cũng như chủ quan. Mọi quốc gia đang phát triển bình thường, tạm gọi là theo quy luật, có thể lập tức chuẩn bị chuyển hướng, thậm chí đứt đoạn, nếu nó bi một quốc gia hùng mạnh, hiện đại xâm chiếm bằng vũ lực . Trường hợp lịch sử  các nước Đông Nam Á  các thế kỹ XVII – XIX  cho ta một ví dụ, đồng thời buoc  chúng ta phải linh hoạt  trong áp dụng nguyên tắc . Nắm vững nguyên tắc chung  nhưng đánh giá đúng  những chuyển biến đột xuất riêng .
       3. Kết hợp một cách chặt chẻ và nhuần nhuyển  hai phương pháp lôgic và lịch sử  trong phân kỳ lịch sử. Như thực tế đã diễn ra , do tác động  của những nhân tố hoàn cảnh  và con người, ở cùng một thời điểm, các nước khác nhau trên thế giới  có thể tồn tại ở những trình độ rất khác nhau  với những quan hệ xã hội khác nhau . Hơn nữa, vì hoạt động của con người rất đa dạng .phong phú nên chúng ta dễ bị thu hút  bởi những cái riêng  muôn hình muôn vẽ đó,  không nhận ra được những cái chung. Từ hai thực tế đó, việc phân chia thời kỳ lịch sử của chúng ta  dễ bị mất phương hướng   hoặc không thực hiện được. Và như vậy,  chúng ta lại trở về với trường phái  phủ định quy luật phát triển  lịch sử  và tính thống nhất của thế giới , vì vậy,  cần tìm ra những mối  liên hệ lôgic  trong muôn vàn hiện tượng lịch sử  phức  tạp  và đa dạng đó, phân biệt rõ cái chung và cái riêng .
        4. Phải có thái độ khách quan khoa học  trong phân kỳ lịch sử. Theo nhiều nhà sử học có uy tín, cách phân kỳ lịch sử hiện có đều mang tính chất quy ước. Mặc dầu vậy, nhà sử học  không thể  không phân kỳ một cách chủ quan , tuỳ tiện.   Sử học là một khoa học, tri thức lịch sử không phải là một thứ đồ trang sức, một câu chuyện của quá khứ làm phong phú thêm cuộc sống của con người  mà là một tri thức về thực tiễn xã hội , về con người , về dân tộc, về văn hoá cần cho cuộc sống ngày hôm nay và ngày mai. Phân kỳ lịch sử sẽ  sẽ giúp cho sự hiểu biết đúng  về tri thức lịch sử, do đó phải  xuất phát từ việc tìm hiểu  một cách toàn diện và khách quan  thực tế lịch sử đã diễn ra  cũng như phù hợp với quy luật phát triển khách quan. Tính khách quan khoa học  là một nguyên  tắc trong phân kỳ lịch sử  Chỉ có trên cơ sở đánh giá  một cách khách quan khoa học  đâu là bản chất, đâu là hiện tượng, đâu là cái chung, đâu là cái riêng  của một quá trình lịch sử, chúng ta mới có đuợc một cách phân định đúng các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử khác nhau .
 IV. TIÊU CHÍ PHÂN KỲ LỊCH SỬ XÃ HỘI
          Như chúng ta đều biết,  sự phát triển của khoa học lịch sử  dẫn đến  sự hình thành  rất nhiều  chuyên ngành lịch sử khác nhau  như lịch  sử chính trị , lịch sử kinh tế,  lịch sử văn hoá,  lich sử khoa học, kỹ thuật, lịch sử tư tưởng …   Mỗi chuyên ngành  lịch sử như vậy  đều có nội dung riêng, có cách phân kỳ riêng, do đó, có tiêu chí  phân kỳ riêng, mặc dầu đều có quan hệ với nhau  và quan hệ chặt chẽ với lịch sử xã hội. Những tiêu chí bàn đến ở đây  là tiêu chí phân kỳ lịch sữ xã hội nói chung, tức thông sử .
1. Phân kỳ lịch sử thế giới :
          Cho đến nay , trong giới sử học, xã hội học đã hình thành hàng loạt  lý thuyết  về sự phát triển của xã hội loài người  như lý thuyết khu vực, lý thuyết thời kỳ kinh tế, lý thuyết hội tụ … bên cạnh học thuyết Mác- Lênin.  Những lý thuyết đó đã  đã ảnh hưởng quan trọng  đến cách phân kỳ lịch sử  cũng như đến tiêu chí phân kỳ lịch sử. Một cách phân kỳ chung nhất  được sử dụng khá phổ biến  là phân kỳ lịch sử theo thời gian: cổ đại , trung đại, cận đại và hiện đại. Tuy nhiên, khi sử dụng cách phân kỳ đó, mỗi trường phái sử  học  lại gắn vào nó một nội dung khác nhau, phân chia theo những tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn, giới sử học phương Tây  đã lấy sự phồn vinh của một số trung tâm văn hoá  làm tiêu chí phân  kỳ cổ đại ,trung đại …  Cũng từ quan niệm đó, theo họ “thời hiện đại ” chỉ là giai đoạn hiện hành của xã hội “thời cận đại”, và điều nầy  không chỉ dành cho phân kỳ lịch sử phương Tây  mà là phân kỳ chung lịch sử nhân loại. Tư tưởng lấy châu Au làm trung tâm hay đúng hơn ,Tây Au , làm trung tâm đã chi phối họ.
Bên cạnh đó, phổ biến một quan niệm về phân kỳ lịch sử  khác  lấy các nền văn minh làm tiêu chí. Theo các nhà sử học  chủ trương cách phân kỳ nầy, lịch sử văn minh là lịch sử toàn bộ  các hoạt động của con người. Một trong số họ  và nhà sử học tiêu biểu  A. Toanbi ( A. Toynbee  ) người Anh. Trong tác phẩm chủ yếu của ông “nghiên cứu lịch sử ”, ông cho rằng  lịch sử là sự chắp nối  của các nền văn minh khác nhau  từ Đông sang Tây, từ thấp lên cao. Từ đó ông  chia lịch sử xã hội loài người  sau khi chế độ  công xã nguyên thuỷ tan rã  thành bốn xã hội “sống”: xã hội Thiên chúa giaó chính thống của Đông Nam Au  và nước Nga, xã hội Hồi giáo, xã hội An giáo  và xã hội Đông Au, mặc dù vẫn thừa nhận nền văn minh Trung Hoa, văn  minh Viễn Đông …
Tiếp theo Toanbi, một số nhà xã hội học  như R. Arông, W.Rotxtâu, J.K.Ganbrai, A.Tôpplơ… đã tuyệt đối hoá vai trò của nhân tố vật chất, kỹ thuât   trong sự phát  triển của xã hội loài người, lấy nó làm tiêu chí  phân kỳ lịch sử   ( phái gọi là phái “kỹ trị ”). Theo họ, lịch sử loài người  phát triển dần từ xã hội nông nghiệp  sang xã hội tiền công nghiệp, xã hội công nghiệp  rồi đến xã hội hậu công nghiệp  hay siêu công nghiệp …  tất nhiên mỗi giai đoạn như vậy  tương ứng với một nền văn minh .
Có thể nhận thấy được những mặt hạn  chế  của các quan niệm về phân kỳ lịch sử nói trên. Những vấn đề mà họ né tránh  chính là vấn đề hình thái kinh te-- xã hội  và vấn đề mâu thuẩn giai cấp .
Như đã nêu trên , một trong những nguyên tắc cơ bản  để phân kỳ lịch sử  là thừa nhận tính thống nhất  của quá trình lịch sử thế giới  . Vậy  tính thống nhất đó do nhân tố nào quy định ?
Sự phát triển của xã hội loài người  rất phức  tạp và đa dạng  nhưng không có nghĩa là không xuất phát  từ một cơ sở thống nhất, có ý nghĩa quyết định. Như chủ nghĩa duy vật lịch sử  mác xít đã xác định,  vật chất quyết định tinh thần  và nhân tố có ý nghĩa xã hội  của cái “ vật chất”  đó chính là cơ sở kinh tế. Cuộc  sống của con người bắt nguồn từ việc “kiếm sống”, từ các nguồn “kiếm sống ” tức là từ hái lượm  vươn lên sản  xuất  và từ sản xuất  đến trao đổi , rồi từ đây mới tậo ra các hoạt đông tinh thần , bao gồm cả tổ chức  và quan hệ xã hội . Nhưng nói đến “cơ sở kinh tế ” không có nghĩa là dừng lại ở sản xuất vật chất , ở kỹ thuật như quan niệm   của phái “kỹ trị” mà   còn phải nói đến mối quan hệ giữa người và người trong sản xuất . tức là “quan hệ xã hội ”. Chính xuất phát từ tiêu chí cơ bản đó  , trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” xuất bản 1846 , Mác và Angghen  đã chia lịch sử loài người  thành những hình thức sở hữu  nối tiếp nhau từ “thị tộc ”, “cổ đại ”, sang “phong kiến ”, “tư bản”.  Và sau nhiều năm nghiên cứu sâu hơn  những nhân tố chi phối sự phát triển của xã hội loài người, Mác đã đi đến chổ lấy “phương thức sản xuất”  làm tiêu chí phân kỳ lịch sử loài người . Trong phần mở đầu của tác phẩm “Phê phán khoa kinh tế – chính trị ” xuất bản năm 1859 , ông viết :”Về đại thể, có thể xem các phương thức sản xuất Á châu , cổ đại ,   phong kiến  và tư sản  hiện đại  là những thời kỳ phát triển nối tiếp nhau  của hình thái kinh tế – xã hội ” Bẵng đi một thời gian, mãi đến năm 1881, trong bản thảo thứ ba của bức thư giửi V.Datxuhit , ông nói rõ hơn  về các hình thaí “thứ hai ”( tức là sau thời kỳ nguyên thuỷ  ) là ba thời kỳ phát triển : xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến  và xã hội tư bản .
Quan điểm của Mác, Ang ghen  lấy “cơ sở kinh tế ” và sau đó là “phương thức sản xuất” và “hình thái kinh tế – xã hội ” làm tiêu chí cơ bản  để phân kỳ  lịch sử xã hội loài người  đã được giới sử học mácxít sau nầy  thừa nhận . Trong các cuộc hội thảo quốc tế về phân kỳ lịch sử gần đây, mặc dầu còn những điểm khác nhau , giới sử học và xã hội học hầu như thừa nhận “hình thái kinh tế – xã hội ” là tiêu chí cơ bản  của phân kỳ lịch sử xã hội loài người. Nội dung của những thời đại đó  có tính chất quy ước  như “cổ đại ”,    “trung đại ”, “cận đại ” , “hiện đại ” ứng với những hình thái kinh tế – xã hội kế tiếp nhau trong lịch sử.
Tuy nhiên, vấn đề không dừng lại ở tiêu chí chung. Một câu hỏi đặt ra là,  một  hình thái kinh tế xã hội không định hình  hay mất đi  trong một thời điểm nhất định, hơn thế nữa,  cùng một khoãng thời gian nhất định  trên thế giới không phải  chỉ ngự trị mợt hình thái kinh tế xã hội. Sự  phát triển của các nước, các dân tộc trên thế giới  rất không đồng đều, ở cùng một thời điểm  nước nầy đã là  tư bản chủ nghĩa  nhưng dân tộc kia  vẫn đang là phong kliến, thậm chí trên phong kến … Vậy  phải hiểu khái niệm “thời đại”. Có thể hiểu “thời đại” ở đây  không  có nghĩa là sự thống trị hoàn toàn  của một hình thái kinh tế - xã hội  nào đó đã  hình thành  và tất yếu sẽ thống trị  và thống trị hoàn toàn trên thế giới  với tư cách là hình thái kinh tế –xã hội tiên tiến nhất , tiêu biểu  nhất. Quan điểm nầy không đòi hỏi, cùng trong một thời đại, tất cả các nước, các dân tộc đều phải trãi qua hình thái kinh tế – xã hội  tiêu biểu đó .
Một câu hỏi khác cũng được đặt ra là, các hình thái kinh tế- xã hội  đã được đúc kết như  chiếm hữu nô lệ,  phong kiến, tư bản chủ nghĩa … có hoàn toàn đúng với  tiến trình phát triển  xã hội  của tất cả các nước trên thế giới hay không  ? Đây là một vấn đề không đơn giản và dễ thống nhất, khi mà nội dung cơ bản  của từng hình thái kinh tế xã hội  chưa thống nhất  và khi mà việc nghiên cứu  lịch sử các nước phương Đông  ngày càng phát triển.  Từ năm 1859, Mác  đã nêu lên khái niệm “phương thức sản xuất Á châu”  và cuộc thảo luận về khái niệm đó  trong những năm vừa qua  vẫn chưa đạt kết quả  mong muốn .
Một vấn đề cũng rất quan trọng  đối với phân kỳ lịch sử  là mốc thời gian  mở đầu của một thời đại  (  đồng thời cũng là mốc kết thúc  thời đại trước đó  ). Có  những mốc thời đại dễ nhất trí   như ở  thời cổ đại .  Đã có lúc người  ta xem thời cổ đại   bao gồm cả hai hình thái xã hội nguyên thuỷ và chiếm hữu nô lệ,  song dần dần thời đại nguyên thuỷ được tách ra  và sự ra đời của nhà nước đầu tiên  ở một nước phương Đông  trở thành cái mốc  mở   đầu thời cổ đại .
Mốc mở đầu các thời đại tiếp sau, cho đến nay vẫn không có quan điểm thống nhất . Có  những cách quan niệm khác nhau,  hoặc lấy một số sự kiện biểu hiện sự ra đời của một phương thức sản xuất  mới   làm tiêu chí   hoặc lấy một biến cố lớn  nói lên sự thắng thế  của phương thức sản xuất mới  làm tiêu chí. Cuộc thảo luận  mốc mở đầu thời cận đại  đã thể hiện những cách nhìn khác nhau đó . Chưa nói đến các trường phái khác nhau  mà chỉ riêng trong trường phái  lấy  cách mạng tư sản  làm tiêu chí  đã là như  vậy. Ba nhóm  có  cách quan niệm khác nhau : nhóm lấy cách mạng tư sản Anh, nhóm lấy cách mạng Hà lan, nhóm lấy cách mạnh tư sản Pháp . Mốc mở đầu thời hiện đại  còn có nhiều ý kiến  khác nhau  , đặc biệt trong   những năm gần đây .
Bên cạnh đo còn có vấn đề phương Đông và phương Tây. Như đã   nói ở trên, do sự phát triển không đồng đều  ở các khu vực khác nhau, mốc mở đầu một thời đại mới  ở các nước phương Đông và Phương Tây không gần nhau, thậm chí cách nhau hằng mấy thế kỷ. Đây là một vấn đề khó  và chưa được trao đổi nmhiều , mặc dầu các bộ sử thế giới  ở các nước khác nhau  vẫn theo một sự phân kỳ khá gần giũi nhau, có tính  chất  quy  ước .
Trong phân kỳ còn  phải chú ý đến việc  phân chia giai đoạn lịch sử .
Trong phạm vi  một hình thái kinh tế xã hội  tức là một thời đại  sự phát triển của xã hội  tuỳ theo một xu hướng nhất định  nhưng vẫn gồm những  giai đoạn khác nhau. Việc phân chia giai đoạn lịch sử này  là một bộ phận  của phân kỳ lịch sử chung .
Vấn đề tiêu chí phân chia giai đoạn cũng không đơn giản, cũng như việc phân kỳ lịch sử chung, nó phải lấy cơ sở kinh tế  hay  phương thức sản xuất làm tiêu chí . Trong trường hợp nầy, việc phân kỳ  phải xuất phát từ sự hiểu  và đánh giá đúng  đặc điểm chủ yếu  của phương thức sản xuất hay hình thái kinh tế – xã hội  cần phân tích. Bên cạnh tiêu chí kinh tế, tiêu chí “đấu tranh giai cấp ” có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi  xác định mốc  đánh dấu  giai đoạn suy vong  của một hình thái kinh tế-  xã hội .
Thông thường, giới sử học  thường chia một hình thái kinh tế – xã hội thành ba giai đoạn : hình thái xác lập, phát triển và suy vong  và mốc mở đầu  của một giai đoạn  được xác định  bằng sự kiện đánh dấu  bước phát triển mới  theo các  tiêu chí nói trên.
2. Phân  kỳ lịch sử dân tộc
          Những tiêu   chí  của phân kỳ lịch sử dân tộc  không có gì khác cơ bản với phân kỳ lịch sử thế giới . Tuy nhiên, nếu như lịch sử thế giới  là sự tổng  hợp của hàng chục, hăng  trăm quốc gia, dân tộc, thì lịch sử dân tộc  chủ yếu liên quan đến sự phát triển xã hội  của một quốc gia  nhất định  hoặc đối với một dân tộc nhất định  ,dân tộc chủ thể , chiếm đa số trong  cư dân .
          Phân kỳ lịch sử dân tộc  được đặt trong cai khung  chung của lịch sử thế giới  song không có nghĩa   là phân kỳ  đúng theo các thời kỳ, giai đoạn của lịch sử thế giới. Do đó, cần phải xuất phát từ  quá trình phát triển riêng  cụ thể của dân tộc  có những nét chung của lịch sử thế giới  lại có những nét đặc  thù  để xác định  rõ các hình thái kinh tế – xã hội đã trãi qua , cũng như thời gian tồn tại của nó  . Chẳng hạn , chế độ chiếm hữu nô lệ là một hình thái kinh tế – xã hội  có tính phổ biến, nội dung chính của thời cổ đại trên thế giới, song có nhiều dân tộc  tiến thẳng  từ xã hội nguyên thuỷ  sang  chế độ phong kiến , không trãi qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên, đâu là nói đến việc phân kỳ lịch sử  ở một nước  ít chịu những  tác động lớn từ bên ngoài, đôi khi rất xa chúng ta .
          Vì  lịch sử dân tộc mang tính đặc trương riêng của một dân tộc nhất định , đôi khi không theo những quy luật chung của thế giới ,cho nên hiện  nay một số dân tộc trên thế giới co  cách phân kỳ theo  cách riêng của mình. Có dân tôc không  co  thời kỳ chiếm  hữu nộ lệ, có dân tộc không có thời phong kiến và cũng có dân tộc  không có thời   ttư bản, vì vậy  khi phân ky   lịch sử dân tộc  chúng ta phả ikết hợp giữa cái chung và cái  riêng, kết hợp  cái nội tại  trong từng dân tộc với  quá trình chung của lịch sử thế giới .
V. MỘT SỐ Ý KIẾN PHÂN KỲ LỊCH SỬ  HIỆN NAY
          1. Phân kỳ lịch sử cận đại thế giới :
          Từ trước tới nay, hầu hết các sách của ta đều lấy mốc mở đầu thời cận đại thế giới là cach mạng  tư sản Anh ( 1640 ) và kết thúc thời cận đại là cách mạng Tháng Mười Nga ( 1917 ) cùng với sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ nhất 1918. Nội dung cơ bản  cuả lịch sử thế giới cận đại  kéo dai gần 3 thế kỷ đó, nói một cách tổng quát  là sự thắng lợi, phát triển  và bước đầu suy vong của nhủ nghĩa tư  bản thế giới .
          Ở các nước Đông Au và Liên Xô cũ trước đây  cũng có những  quan điểm như vậy  trong việc phân kỳ lich sử  thế giới. Còn nhiều sử gia phương Tây thì cho rằng thời kỳ lịch sử thế giới cận đại  phải bắt đầu từ sau những cuộc phát kiến địa lý  thế kỷ XV. Còn Sách giáo khoa lịch sử hiện nay của ta  thì coi cách mạng Hà Lan ( 1566 ) là  mốc mở đầu  của thời kỳ nầy . Vậy tại sao chúng ta chọn mốc nầy ?
          Như chúng ta đã biết, ở các nước châu Au   chủ nghĩa tư bản xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến  và trãi qua những bước phát triển mạnh mẽ, khá điển hình. Tuy nhiên  lực lượng sản xuất  tư bản chủ nghĩa ngày càng lớn lên  đã bị kìm hãm bởi quan hệ sản  xuất phong kiến . Mâu thuẩn giữa chế độ phong kiến phản động  ngăn cản sự tiến hoá của nhân loại và chủ nghĩa tư bản  đang trên đường phát sinh  và phát triển đã  nổ ra rất quyết liệt  dưới nhiều hình thức, trong thời kỳ lịch sử lâu dài. Vào cuối thời trung đại  giai cấp tư sản tiếp tục làm giàu và có điều kiện phát triển thế lực của mình  qua việc buôn  bán với nước ngoài, trong đó  có việc buôn bán nô lệ  và qua cướp bóc ở thuộc địa. Để gạt bỏ sự kìm hãm của chế độ phong kiến, giai cấp tư sản mới ra đời ở Tây Au, trước hết là Hà Lan   đã liên minh với giới quý tộc  tư sản hoá  lãnh  đạo nông dân và các tầng lớp nhân dân khác  vùng dậy làm cách mạng lật đổ ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha, xây dựng quốc gia độc lập, mở đường cho chủ nghĩa Tu b?n phát triển . Cho nên, cách mạng năm 1566  ở Hà Lan  thực chất là một cuộc cách mạng tư sản. Tiếp theo cách mạng Hà Lan  là  là cuộc chiến tranh  mang tính chất tư sản  của nông dân Đức , Cách mạng tư  sản Anh thế kỷ XVII, Chiến tranh giành độc lập của 13 thuộc Anh ở Bắc Mỹ, sau đó là cuộc Đại cách mạng  tư sản Pháp 1789, dây là cuộc cách mạng điển hình nhất, triệt để nhất. Cuộc cách mạnh nầy  lại thúc đẩy sự bùng nổ  của hàng loạt những cuộc cách mạnh tư sản  khác ở châu Au, châu Mỹ  và  cả ở Nhật  và lần lượt nhiều nước châu Á khác .
          Như vậy, đứng về mốc thời gian  thì cuộc cách mạng tư sản  Hà Lan  nổ ra trước cách  mạng tư sản Anh  đến gần một thế kỷ. Hơn nữa, nó mở đầu cho sự phát triển   của cách mạng tư  sản  khỏi sự kìm cặp của chế độ phong kiến . Chính vì thế mà cách mạng tư sản Hà lan  mang một ý nghĩa vô cùng trọng đại  là người mở đường đầu tiên  cho một giai đoạn phát triển mới  của lịch sử thế giới thời cận đại . Điều đó hoàn toàn hợp với logic  phát triển của lịch sử . Do đó  không thể lấy cuộc cách mạng tư sản Anh ( 1640 )  là cuộc cách mạng đứng thứ ba về thời gian  để mở đầu  thời kỳ lịch sử  cận đại, dù ý nghĩa thế giới  của nó sâu nặng hơn .
          Lịch  sử thế giới cận đại,  thực chất là lịch sử của các cuộc cách mạng tư sản , lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, lịch sử đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, lịch sử của nhân dân  các nước phương Đông chống xâm lược  và giải phóng dân tộc . Các cuộc cách mạng tư sản , trên những mức độ khác nhau  đã lật đổ nền thống trị của gai cấp phong kiến, thiết lập hệ thống nhà nước tư sản. Từ khi lên cầm quyền, giai cấp tư sản xoá bỏ đặc quyền phong kiến, tạo điều kiện phát triển kinh tế, ban hành chế độ tự do kinh doanh, thống nhất thị trường tiền tệ, đo lường và quan thuế .
          Cách mạng Hà Lan là cuộc cách mạng  tư sản đầu tiên thắng lợi. Ach thống trị của phong kiến Tây Ban Nha  ở Hà Lan bị lật đổ, nền cộng hoà được xác lập  mở đầu cho  sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Hà Lan và thế giới.
          Vì vậy, cách mạng Hà  Lan là mốc mở đầu  của mọi biến động  lịch sử châu Au và thế giới. Cũng phải thừa nhậnrằng, cách mạng Hà Lan lúc  bấy giờ  tuy diễn ra  trên phạm vi không lớn về địa lý ,nhưng cũng gây ảnh hưởng lớn về mặt tinh thần tư tưởng. Nó là tiếng kèn thúc giục  mọi sự bùng nổ  làm biến động thế giới . Sau đó, cuộc cách mạng tư sản Anh  thế kỷ XVII  có ảnh hưởng lớn hơn  ở phạm vi toàn châu Au . Ngoài yếu tố chủ quan , cách mạnh tư sản Anh  phát huy được ảnh hưởng rộng lớn  còn nhờ kết quả của  những cuộc phát kiến địa lý  trong thời gian nầy.  Những phát kiến địa lý đó có ý nghĩa vô cùng to lớn  đối với lịch sử châu Au và thế giới. Nhiều biến động sâu sắc về kinh tế, chính trị, xã hội  ỡ châu Au cũng như như các châu lục khác, từ sau thế kỷ XVI  đều diễn ra dưới ảnh hưởng trực tiếp  hoặc gián tiếp  của những phát kiến địa lý. Cách mạng tư sản Anh , dĩ   nhiên được thừa hưởng thành quả  to lớn đó, cho nên  nhiều người lâu nay  đã chọn sự kiện này  làm mốc mở đầu cho thời kỳ cận đại,  thời kỳ thống trị của chủ nghĩa tư bản. Song xét sâu hơn  thì thấy rằng, nước Anh lại chịu nhiều tác động  của cách mạng tư sản Hà Lan  trên nhiều lĩnh vực, nhất làvề kinh tế .
          Sau cách mạng tư sản thắng lợi, ở Hà Lan  chế độ thống trị  phong kiến Tây ban Nha bị lật đổ , chủ nghĩa tư bản đặc biệt phát triển ở Nêdeclan, đáng chú ý là thương nghiệp. Chỉ riêng 2000  tàu thuyền buôn  của “các tỉnh liên hiệp”  cũng đã hoạt động rất nhộn nhịp  ở trên biển. Đến đầu thế kỷ XVII , Am-xtec-dam  đã co trên 10  vạn  dân, là thương cảng quốc tế của các   tàu buôn  Anh , Pháp, Nga,  các công ty thương mại Hà lan  như  “Công ty Phưong Đông ”, “công ty Đông Ấn”….. được thành lập  từ rất sớm. Các công ty nầy không chỉ mở rộng  về buôn bán  ở khắp thế giới  mà còn xâm lược đất đai các nước làm thuộc địa . Chính nhờ  có thắng lợi của cách mạng  1566  mà trên một thế kỷ , Hà Lan trở thành cường quốc thương mại số một thế giới . Điều đó đã góp phần  làm cho sự phát triển phồn vinh  của chủ nghĩa tư bản ở Hà Lan.  Giai cấp tư sản ở các nước  Tây Au  đã sớm rút đươc bài học  quý báu từ cách mạng Hà Lan .
          Cách mạng tư sản Hà Lan  đã vạch ra sơ đồ tổng thể  nhiệm vụ chung  của cách mạng tư   ở các  nước  Au, Mỹ . Chính sự ra đời của thành thị ,  sự phát triển của sản xuất, các cuôc phát kiến địa lý  đã dẫn đến  sự phát triển của lực lượng sản xuất  mới- Tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy, sản xuất tư bản chủ nghĩa thời kỳ nầy  chưa thoát khỏi khuôn khổ của chế độ phong kiến. Đại bộ phận  sản xuất  đều là thủ công, kinh tế tiểu nông   vẫn chiếm ưu thế. Mặc dầu vậy ,  những mầm móng đầu tiên của chủ nghĩa tư bản  đã có ãnh hưởng rõ rệt đến sinh hoạt kinh tế , văn hoá và xã hội lúc đó. quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời  thì các giai cấp đại diện cho nó  ( tư sản – vô sản ) cũng xuất hiện.  Việc ra đời các  giai cấp mới  làm cho kết cấu xã hội phong kiến thay đổi. Đấu tranh giai cấp ngày càng quyết liệt . Từ thế kỷ XV – XVI   trào lưu tư sản đã có hai đợt sóng lớn là : Văn hoá phục hưng  và  Chiến tranh nông dân Đức, thực chất đây là những hoạt của giai cấp tư sản hoặc do giai cấp tư sản hướng đạo, đều mang tính chất tư sản .
          Về mặt ý nghĩa  lịch sử  thì cuối thế kỷ XVI , cách mạng Hà Lan  đã bắt đầu tấn công trực diện  vào chế độ phong kiến. Sau cuộc cách mạng nầy, giai cấp tư sản thế giới  liên tiếp làm các cuộc cách mạng tư sản  ở nhiều nước dưới nhiều hình thức  khác nhau. Các triều đại phong kiến kế tiếp nhau sụp đổ, các đặc quyền đặc lợi của chúng  dần dần bị xoá bỏ . Chế độ phong kiến dần dần được thay thế  bằng chủ nghĩa tư bản. Cách mạng Hà Lan dưới hình thức là một cuộc chiến  tranh giải phóng dân tộc đã đi tiên phong trong nhiệm vụ nầy .
          Nhiệm vụ chung của các cuộc cách mạng tư sản là : Lật đổ chế độ phong kiến,  chống ngoại xâm  giữ độc lập ( Hà Lan , Mỹ , Pháp ) , thống nhất đất nước, tạo điều kiện  kinh tế cho chủ nghĩa tư bản phát triển ( Đức , Ý )và đây cũng là quá trình hình thành  dân tộc tư sản .
          Xét những nhiệm vụ chung của các cuộc cách mạng tư sản  ở  Au, Mỹ, rõ ràng cách mạng tư sản Hà Lan  là người khởi xướng, làm xáo trộn trật tự xã hội  cũ  của những thế kỷ trước, xây dựng một chế độ mới , đi tiên phong trong  thực hiện nhiệm vụ  của cách mạng tư sản. Đó là cơ sở khoa học để chúng ta lấy cách mạng tư sản Hà Lan làm cột   mốc  khởi đầu  thời lịch sử thế giới cận đại .
2. Phân kỳ lịch sử Việt Nam
          Sự phát triển của  lịch sử nước ta  ngoài những nhân tố bên trong  là chính  còn chịu nhiều tác động từ bên ngoài. Từ xa xưa, Việt Nam là đối  tượng xâm lược và đô hộ của các triều đại phương Bắc. Vào cuối thế kỷ XIX , đầu thế kỷ XX ,  Việt Nam lại là đối tượng xâm lược   và đô hộ của thực dân Pháp. Như vậy,  khi phân kỳ lịch sử  bên cạnh yếu tố phát triển nội tại  cần tính tới các yếu tố  tác động  ngoại lai . Nếu chúng ta biết rằng  các triều đại phương Bắc  hay thực dân Pháp  khi xâm lược và đô hộ nước ta  đều đang tồn tại  trong những hình thái kinh tế – xã hội  cao hơn  thì chúng ta không thể không xem ảnh hưởng  của các nước đó  đối với sự phát triển của nước ta  là một thứ tiêu chí để phân kỳ lịch sử. Chẳng hạn , giới sử học nước ta  đã từng  hội thảo về vấn đề “Việt Nam có trãi qua thời chiếm hữu nô lệ hay không, nếu không thì nội dung kinh tế- xã hội  của  thời cổ đại là gì ”;  hoặc “cuộc xâm lược của thực dân Pháp trong những năm  1858, 1884  có phải là mốc mở đầu thời cận đại  của lịch sử Việt Nam không ”…Ở đây có thể đặt một câu hỏi , đưa thời cận đại của lịch sử nước  ta sang thế kỷ XIX, sau mốc mở đầu thời cận đại của lịch sử thế giới  ba thế kỷ có thích hợp không ?  Tất nhiên ở đây là vấn đề đã đặt ra ở trên, phân kỳ lịch sử dân tộc  không thể rập khuôn   phân kỳ lịch sử thế giới, mà phải xuất phát từ thực tiễn  phát triển lịch sử của dân tộc mình.  Cũng có thể đặt câu hỏi, lấy một sự kiện chính trị, quân sự ngoại lai  làm tiêu chí  phân kỳ lịch sử dân tộc  như trên có thích hợp  không?
          Hiện nay  chúng ta tạm thời phân chia  lịch sử dân tộc  ra các thời kỳ :
    - Thời công xã nguyên thuỷ – bình minh của lịch sử dân tộc
    - Thời dựng nước và giữ nước : Thời Văn lang , Au lạc
    - Thời Bắc thuộc và đấu tranh chống Bắc thuộc
    - Thời kỳ phong kiến dân tộc độc lập, từ thế kỳ X – giữa thế kỷ XIX
    - Thời kỳ Pháp thuộc  và đấu tranh chống xâm lược, giải phóng dân tộc( 1858-1945 )
    - Kỷ nguyên độc lập đi lên chủ nghĩa xã hội , từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay .
          Đi vào phân chia giai đoạn của từng thời đại, nhất là ở thời cận đại  và hiện đại của nước ta, lại cần suy xét nhiều hơn. Cho đến nay, giới sử học chúng ta  vẫn phân kỳ thời cận đại  theo lịch sử phong trào cách mạng, tức là lấy phong trào cách mạng làm tiêu chí. Đã từng có những ý kiến khác nhau  về phân kỳ lịch sử  các thời đại nầy nhưng không xuất hiện một tiêu chí nào khác .
          Tóm lại, phân kỳ lịch sử dân tộc  đòi hỏi những công trình nghiên cứu cụ  thể  về nhiều mặt của lịch sử nước ta.  Phân kỳ lịch sử là một công việc cần thiết của sử học, đòi hỏi sự kiên trì, trung thực và tinh thần sáng tạo  của nhà nghiên cứu, nghĩa là phải vừa đứng vững trên nguyên tắc chung  vừa nắm chắc những  những thành tựu  nghiên cứu lịch sử cũ thể. Mọi sự máy móc, giaó điều, hoặc vô nguyên tắc, tuỳ tiện  đều dẫn đến những  hậu quả xấu  đối với công tác nghiên cứu lịch sử  và đặc biệt đối với việc giảng dạy lịch sử .
    3. Vấn đề phân kỳ  trong  lịch sử    “ Việt Nam Cận đại “
          Đối với lịch sử cận đại thế giới  thì thời kỳ nầy là thời kỳ ra đơi , phát triển và suy vong của chủ nghĩa tư bản, là thời kỳ của các cuộc cách mạng tư sản . Nhưng đối với Việt Nam  và các nước Á, Phi  thi đây là thời kỳ  đấu tranh chống xâm lược và giải phóng  dân  tộc .
          Hiện nay chúng ta không gọi là thời kỳ cận đại Việt Nam  theo  cách gọi chung của lịch sử thế giới ,chúng ta gọi là thời kỳ Pháp thuộc và đấu tranh chống xâm lược, giải phóng dân tộc 1958-1945.  Do điều kiện cụ thể của  lịch sử  Việt Nam, đất nước ta từ 1958 bị thực dân Pháp xâm lược  và sau đó biến nước ta thành thuộc địa của Pháp. Trong suốt quá trình  vơ vét thuộc địa thực dân Pháp đã du nhập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa vào nước ta, đồng thời duy trì phưong thức bóc lột  phong kiến   để bóc  lột nhân dân ta. Vì vậy đây  có thể coi là thời kỳ   mà xã hội Việt Nam mang tính chất  phong kiến nưa  thuộc địa, mang những nét tính chất  hoàn toàn khác so với thời kỳ cận đại của lịch sử thế giới.
       Trước hết chúng ta  chọn mốc mở đầu của thời kỳ nầy. Có  ý kiến cho rằng chọn mốc  mở đầu là 1858, năm thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta  hoặc là năm mà nhân dân ta bắt đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cũng có ý kiến cho rằng nên chọn năm 1884, năm mà  triều đình Huế ký hiệp ước Pa tơ nôt, kết thúc  vai trò  lãnh đạo nhân dân cuả triều đình  nhà Nguyễn  , năm mà thực dân Pháp hoàn thành việc  xâm lược chuyển sang khai thác bóc  lột nhân dân ta . Nếu chúng ta xét theo vai trò của chế độ phong kiến Nguyễn thì năm 1884 là mốc kết thúc, nếu chúng ta xét   theo quan điểm dân tộc  thì cuộc  kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược thì ta nên chọn mốc ta 1858 là năm bắt đầu cuộc kháng chiến . Hiện nay sách giáo khoa của ta chọn mốc 1858 để bắt đầu  và kết thúc một thời  kỳ  lịch sử .
       Còn mốc kết thúc thời kỳ nầy thì cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945 thì  không phải tranh luận, mọi người đều nhất trí lấy  sự kiện khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm năm mở đầu cho Kỷ nguyên   độc lập dân  tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội .
      Thời kỳ Pháp thuộc  và đấu tranh chống xâm lược  , giải phóng  dan   tộc  ( 1858-1945 ) được phân chia thành các giai đoạn như sau :
       Phần I    : Việt Nam từ 1858-1896
       Phần II  : Việt Nam từ 1897-1918
       Phần III : Việt Nam từ 1918- 1930
       Phần IV : Việt Nam từ 1930-1945.
          Đây là giai đoạn chúng ta cần có những suy xét nhiều hơn, hiện nay các nhà sử học nước ta  phân kỳ lịch sử  không đi theo những cái chung của thế giới, chúng  ta lấy  phong trào cách mạng làm tiêu  chí để phân kỳ lịch sử, để phân chia các giai đoạn .
4. Vấn đề phân kỳ trong lịch sử Việt Nam hiện đại  
Lịch sử Việt Nam thời kỳ hiện đại  là lịch sử đấu tranh giải phóng dân  tộc  và xây dựng chế độ mới  theo  định hướng xã hội chủ nghĩ.  Đó là nội dung và cũng là cơ sở cho việc phân kỳ lịch sử  trong thời kỳ lịch sử hiện  đại. Tuy vậy, lịch sử là quá trình phát triển liên tục, cho nên các giới hạn   phân kỳ  chỉ co ý nghĩa tương đối và quy ước. Như Lênin đã chỉ rõ : “Dĩ nhiên là những cách phân chia giới hạn đó  cũng như nói chung  những cách phân chia giới hạn trong giới  tự nhiên  và trong xã  hội  đều có tính chất quy ước  và không cố định,  đều là tương đối và không tuyệt đối”.  Do đó    giới  hạn phân kỳ lịch sử  chỉ có khi xác   định được  bằng sự kiện   lịch sử  với những năm tháng cụ thể,  nhưng  cũng có khi phải xác định  bằng một quá trình kéo dài  trong một thời gian nhất định .
Khái niệm lịch sử cận đại, hiện đại cũng như cổ trung đại  vốn là những khái niệm có tính chất quy ước  và tương đối. Trong nền sử học tư  sản, những khái niệm đó chỉ dùng  để chỉ đơn thuần một  cách nhất định  về thời gian giữa lịch sử và hiện thực. Đối với các nhà sử học Mác xít,  khái niệm đó đã đưa vào một nội dung  xã hội  để chỉ các thời kỳ lịch sử nhất định  tương ứng với các chế độ xã hội. Tuy nhiên  các khái niệm đó đều có tính quy ước  và tương đối khi vận dụng vào lịch sử  của từng nước  bao hàm nội dung và ý nghĩa khác nhau .
Đối với nước ta, đến nay trong giới sử học vẫn còn những quan điểm khác nhau  về việc phân kỳ lịch sử hiện đại. Có ý kiến lấy mốc là 1930 , có người lấy mốc năm 1945, hoặc năm 1954   làm mốc phân chia lịch sử cận đại và hiện đại Việt Nam. Cũng có ý kiến chủ trương  không nên sử dụng khái niệm cận đại , hiện đại  vào lịch sử Việt nam  mà nên lấy ngay nội dung lịch sử cụ  thể  của từng thời kỳ để đặt tên cho mỗi thời kỳ đó. Ví dụ,  thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ …
Xu hướng chung của giới sử học  chúng ta hiện nay  coi vấn đề quan trọng của việc phân kỳ  không phải là sử dụng các khái niệm  để gọi các thời kỳ lịch sử  mà chính là phải vạch ra cho được  các thời kỳ và giai đoạn lịch sử  với những nội dung và đặc điểm cụ thể  của nó  để phản ánh rõ sự phát triển  vô cùng phong phú , phức tạp  nhưng hợp quy luật  của lịch sử từng nước, từng địa phương hay từng ngành .
Phân chia các thời kỳ  và giai đoạn lịch sử Việt Nam  thời kỳ hiện đại chúng ta phải quán  triệt nội dung  và đặc điểm của lịch sử đất nước  trong giai đoạn nầy. Lịch sử Việt Nam thời hiện đại  (từ 1945 đến nay ) là lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc  và thực hiện dân  chủ, bảo vệ và xây dựng nướcViệt Nam mới  theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,  việc phân kỳ lịch sử đòi hỏi chúng ta  phải căn cứ vào sự phát triển  và những bước chuyển biến  của phong trào đấu tranh   giải  phóng dân tộc  thể hiện qua sự thay đổi về tính chất và hình thức, về vai trò của giai cấp lãnh đạo, về động lực và phương hướng của phong trào, của nội dung và mục tiêu  xây dựng  và phát triển đất nước  để phân chia các thời kỳ  và giai đoạn lịch sử .
Tuy vậy, nghiên cứu lịch sử dân tộc trong thời kỳ nầy, chúng ta cũng cần chú ý đến đặc điểm của thời đại, ảnh hưởng và tác động qua lại  giữa các nước trên thế giới. Song sự kiện bên ngoài  dù quan trọng đến đâu  cũng chỉ là điều kiện  của sự vận động bên trong, do đó  không thể lấy sự kiện bên ngoài  làm mốc để phân kỳ lịch sử Việt Nam .
Sự kiện năm 1945  với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám  và sự ra đời của  Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà  đã “mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nước  ta ”,   đã được giới sử học coi là  mốc lịch sử có ý nghĩa  vạch thời đại và lấy nó làm mốc phân chia  giữa lịch sử cận đại và hiện đại Việt Nam .
Trên quan điểm đó, lịch sử Việt Nam  từ 1945 đến nay  được phân chia làm ba thời  kỳ lớn như   sau :
      - Thời kỳ kháng chiến  chống thực dân  Pháp xâm lược  và xây  dựng chế độ Dân chủ Cộng hoà ( 1945-1954 )
      - Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc  và kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước(1954-1975 )
      - Thời kỳ xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa  ( 1975 đến nay )
Trong từng thời kỳ, căn cứ vào đối tượng, mục tiêu  và thành quả của sự nghiệp cách mạng  của đất nươc, chúng ta có thể chia thành nhiều giai đoạn nhỏ:
      a/  Thời kỳ thứ nhất: Kháng chiến chống thực dân Pháp  xâm  lược  và xây dựng chế độ Dân chủ Cộng hoà  tử 1945 đến 1954 có thể chia làm 3 giai đoạn với các tên gọi sau:
        - Giai đoạn bảo vệ và xây dựng  chế độ Dân chủ Cộng hoà ( 1945-1946 )
        - Sự bùng nổ  và tiến triển  của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp  trong toàn quốc ( 1946 – 1950 ) .
        - Cuộc kháng chiến phát triển mạnh me và kết thúc thắng lợi (1951–1954)
       b/  Thời kỳ thứ hai   :Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nmiền Bắc  và kháng chiến chống Mỹ , giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước ( từ 1954 đến 1975 ) có thể chia làm 5 giai đoạn như sau :
        - Xây dựng miền Bắc và  đấu tranh chống đế quốc Mỹ  và chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam ( 1954-1960 )
        - Đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc  và chiến đấu chống “chiến tranh đặc biệt ” của đế quốc Mỹ ở miền Nam ( 1960 – 1965 )
        - Chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ ” và chiến tranh phá hoại lần thứ nhất   của đế quốc Mỹ, tiếp tuc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc( 1965 – 1968 ).
        - Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến  tranh ” và chiến tranh phá hoại lần thứ hai  của đế quốc Mỹ, khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc ( 1969- 1973 ).
        - Khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc , cả nước dồn sức giải phóng hoàn toàn   miền Nam  ( 1973-1975 ).
       c/ Thời kỳ thứ ba    :Xây dựng đất nước theo định    hướng xã hội chủ nghĩa  ( 1975 đến nay )  có thể chia  làm ba   giai  đoạn sau :
         - Khôi phục và  xây dựng lại đất nước   sau chiến tranh  ( 1975-1985 )
         - Việt Nam 10 năm đầu  thực hiện công cuộc đổi mới ( 1985-1995 )
         - Tiếp tục sự nghiệp đổi mới , đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước  ( 1996 đến nay ) .
Việc phân kỳ như trên  dựa trên tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ  cũng như thành tựu mà cách mạng Việt Nam  đã đặt ra  và đạt được trong nửa thế kỷ qua . tên gọi của mỗi thời  kỳ, mỗi giai đoạn  cũng phải căn cứ vào tình chất, mục tiêu, nhiệm vụ của  thời kỳ đó .
      5. Phân kỳ lịch sử địa phương :
      Việc phân kỳ lịch sử dân tộc  là cơ sở, nền tãng  để từ đó  chúng ta có thể phân chia giai đoạn  của lịch sử địa phương  hoặc của ngành.  Về cơ bản  lịch sử đấu tranh cách mạng của các địa phương  diễn ra theo đường  lối  và tiến trình chung dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó  sự phân kỳ của lịch sử địa phương  vể đại thể  sẽ trùng với  việc phân kỳ lịch sử dân tộc. Tuy vây, do  điều kiện và hoàn cảnh riêng, ở từng địa phương  có những sự kiện quan trọng  trở thành một mốc lịch sử, đánh dấu  một giai đoạn  của lịch sử địa phương hay một ngành . Ví dụ  sự ra đời  của tổ chức đảng hay chính quyền  cách mạng địa phương : sự thành  lập, sự thay đổi tổ chức  hay giải thể một ngành …
       Về cột mốc của từng địa phương cũng có những thay đổi . Ví dụ : đến những  thời điểm, địa phương thay đổi  địa giới hành chánh, hoặc là địa phương có những mốc riêng trong phong trào cách mạng, chúng ta cũng cần lưu ý để phù hợp với từng giai   đoạn cách mạng của  địa phương
      Do đó sự phân kỳ lịch sử địa phương  hay của ngành trước hết  phải  dựa vào thực tế địa phương, của ngành  trên cơ sở  yêu cầu và nhiệm vụ  chung  của sự nghiệp  cách mạng của đất  nước. Cần lưu ý  tránh tình trạnh tách rời  sư phân kỳ  hay nội dung của lịch sử địa phương  ra khỏi lịch sử dân tộc , hoặc ngược lại  bo qua những yếu tố cá biệt, điển hình của địa phương, của ngành  mà chỉ dựa vào khuôn mẫu chung về sự phân kỳ  hay nội dung của lịch sử dân tộc .
    VI . KẾT LUẬN
 Phân kỳ lịch sử sẽ   giúp cho sự hiểu biết đúng  về tri thức lịch sử, do đó phải  xuất phát từ việc tìm hiểu  một cách toàn diện và khách quan  thực tế lịch sử đã diễn ra  cũng như phù hợp với quy luật phát triển khách quan. Tính khách quan khoa học  là một nguyên  tắc trong phân kỳ lịch sử. Chỉ có trên cơ sở đánh giá  một cách khách quan khoa học  đâu là bản chất, đâu là hiện tượng, đâu là cái chung, đâu là cái riêng  của một quá trình lịch sử, chúng ta mới có đuợc  một cách phân định đúng các giai đoạn, các thời kỳ lịch sử khác nhau .
Mỗi chuyên ngành lịch sử chúng ta chọn cho mình những tiêu chí ,những nguyên tắc phù hợp   để phân kỳ lịch sử .
       Tóm lại, phân kỳ lịch sử  đòi hỏi  phải có  những công trình nghiên cứu cụ  thể  về nhiều mặt của lịch sử.  Phân kỳ lịch sử là một công việc cần thiết của sử học, đòi hỏi sự kiên trì, trung thực và tinh thần sáng tạo  của nhà nghiên cứu, nghĩa là phải vừa đứng vững trên nguyên tắc chung  vừa nắm chắc những  những thành tựu  nghiên cứu lịch sử cụ thể. Mọi sự máy móc, giaó điều, hoặc vô nguyên tắc, tuỳ tiện  đều dẫn đến những  hậu quả xấu  đối với công tác nghiên cứu lịch sử  và đặc biệt đối với việc giảng dạy lịch sử
Hiện nay có xuất hiện  trường phái   phân kỳ lịch sử dựa theo sự phát triển các giai đoạn  của các nền văn minh của  nhân loại , phân chia các giai đoạn lịch sử dựa theo các nền văn minh  cũng có những nét tiến bộ, có lý, nhưng hiện nay vẫn còn giai đoạn thử nghiệm ở một số quốc gia trên thế giới, chúng ta cần nghiên cứu thêm  .

ÿÿÿÿÿÿÿÿÿ








VII.    Tài liệu tham khảo :
1)    Phương pháp luận sử học  - Phan Ngọc Liên chủ biên  - NXB Đại học sư phạm - 2003
2)    Sử học  những tiếp cận thời mở cửa  - Viện thông tin khoa học xã hội – 1998.
3)    Phương pháp lịch sử và phương pháp Logic – GS Văn Tạo  - Viện sử học Việt Nam xuất bản – 1995
4)    Vấn đề phân kỳ trong việc nghiên cứu lịch sử hiện đại Việt Nam – PGS.TS Nguyễn Văn Nhật  - 2001.
5)    Về mốc mở đầu thời kỳ lịch sử thế giới cận đại  trong chương trình lịch sử trung học chuyên ban – Lê Tiến Giáp – Đại học sư phạm Vinh
6)    Sử gia và thời đại – Viện thông tin khoa học xã hội - Hà nội -1999
7)    Lịch sử là gì ?   Ê rô phê ép – NXB Giáo dục  - Hà nội 1981
8)    Các trường phái sử học – Guy Bourdé – Hervé Martin – Viện sử học Việt Nam  - Hà Nội 2001
9)    Cải cách sử học -  Viện thông tin khoa học xã hội – Nhiều tác giả – 1996
10).Sử học trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI – Viện thông tin khoa học xã hội – 1997.
                õõõ